Lớp thờ Nữ thần mang tính phổ quát rộng rãi, phù hợp với xã hội nông nghiệp và vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Lớp thờ Mẫu thần phát triển trên cái nền thờ Nữ thần, thường gắn với tính chất quốc gia, như thờ các Vương Mẫu, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu, như nguyên phi Ỷ Lan, Mẹ Gióng, Mẫu Tây Thiên, Thiên Ya Na, Linh Sơn Thánh Mẫu – Bà Đen, Bà Chúa Xứ… Về cơ bản, lớp thờ Nữ thần và Mẫu thần mang tính bản địa, nội sinh. Lớp Mẫu Tam phủ, Tứ phủ hình thành trên cơ sở lớp tín ngưỡng thờ Nữ thần và Mẫu thần kết hợp với tiếp thu những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Hoa. Tuy nhiên, sau khi đã hình thành và định hình thì đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ đã và đang ảnh hưởng theo hướng “Tam phủ, Tứ phủ hoá” tín ngưỡng thờ Nữ thần và Mẫu thần.
Đạo Mẫu là tín ngưỡng bản địa có nguồn gốc từ lâu đời, từ thời nguyên thủy, nó thỏa mãn tâm lý của người nông dân cầu mong sự sinh sôi nảy nở, nó đã từng tồn tại trong thời kỳ lâu dài của lịch sử chế độ phong kiến, nó đáp ứng nhu cầu không chỉ của nông dân, nông thôn mà còn cả tầng lớp thương nhân ở đô thị, nhất là từ thế kỷ XVI-XVII. Ngày nay, nó vẫn tiềm ẩn chiều hướng phát triển đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế thị trường và đô thị hóa, hiện đại hóa của Việt Nam. Đạo Mẫu đã phát triển rộng khắp ở cả đồng bằng, đô thị và miều núi, tạo nên một nét khá nổi bật trong bức tranh chung vốn hết sức đa dạng và phong phú của tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam.
Đây là một thứ tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa đích thực, mặc dù trong quá trình phát triển, nó đã thu nhận những ảnh hưởng của Đạo giáo, Phật giáo và thậm chí cả Nho giáo nữa. Đạo Mẫu lấy tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm đấng sáng tạo và bảo trì cho vũ trụ, con người, là nơi con người ký thác những mong ước, khát vọng về đời sống trần thế của mình, đạt tới sức khỏe và tài lộc (Phúc Lộc Thọ).
Một hệ thống thần điện tuy là đa thần (có khoảng trên dưới 60 vị hánh), nhưng đứng đầu và bao trùm lên là Thánh Mẫu, trong đó Thánh Mẫu Liễu Hạnh tuy xuất hiện muộn mằn trong điện thần (từ thế kỷ XV-XVI) nhưng lại chiếm vị trí thần chủ trong điện thần Đạo Mẫu. Chính Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã “trần thế hóa” Đạo Mẫu và trong điều kiện của xã hội Nho giáo cuối thời phong kiến nó đã đi vào đời sống dân gian, bắt rễ sâu vào xã hội và đời sống tâm linh của mỗi con người Việt Nam.
Đạo Mẫu vốn là tín ngưỡng bản địa của tộc Việt, nhưng nó thể hiện một khả năng tích hợp tôn giáo tín ngưỡng cao, làm cho hệ thống điện thần cũng như bộ mặt văn hóa của nó thể hiện tính đa tộc người, đa văn hóa của không chỉ dân tộc đa số mà còn cả các tộc người thiểu số cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Trong hệ thống các thần linh có nhiều vị thần người dân tộc thiểu số, do vậy nó cũng tích hợp các sinh hoạt văn hóa của các dân tộc thiểu số đó vào trong nghi lễ của đạo này (ăn mặc, âm nhạc, múa hát…).Hiếm có một tôn giáo tín ngưỡng bản địa nào lại “tiềm tàng” sức tự biến đổi, “trẻ hóa” như là Đạo Mẫu. Nó không chỉ có sức sống trong điều kiện chế độ phong kiến quân chủ, mà còn tiềm ẩn và bùng phát trong xã hội đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Vậy căn cỗi nhận thức nào, căn cỗi xã hội nào đã là “mảnh đất” ra đời tồn tại, hồi sinh và phát triển của Đạo Mẫu? Phải chăng đó là xã hội nông nghiệp, nông thôn và nông dân mà ở đó nền canh tác lúa nước và xã hội mang đậm tàn tích mẫu hệ với vai trò to lớn của người phụ nữ ? Phải chăng đó còn là một xã hội manh nha và bắt đầu phát triển nền “thương nghiệp” chợ quê vào thế kỷ XV- XVII, nhất là thời kỳ Nhà Mạc, mà ở đó vẫn là vai trò trụ cột của người phụ nữ ? Và phải chăng ngày nay trong khung cảnh xã hội công nghiệp hóa của nền kinh tế thị trường thuở giao thời lại là mảnh đất mới cho sự “phục hưng” của hình thức tín ngưỡng này.