Phật giáo

Sơ lược các tông phái Phật giáo

Phật giáo có mấy phái? Phật giáo gồm những phái nào? Câu hỏi này chắc chắn không phải ai theo đạo Phật cũng biết.

2168

Phật giáo có hai tông phái lớn là Đại Thừa và Tiểu Thừa. Ở mỗi tông phái chia ra thành nhiều phái khác nhau.

A. Sự hình thành các tông phái

Sau khi Phật nhập Niết Bàn một trăm ngày, có 500 vị Thượng Toạ trưởng lão (Sthavias) tổ chức cuộc kết tập lần đầu trong hang Saltapanni rừng nigradha cử Tôn giả Ma Ha Ca Diếp làm Thủ tọa, ngài A Nan trùng tuyên những lời Phật dạy làm thành tạnh kinh, cử Ngài Ưu Ba Li đọc lại các điều răn của Phật để kết tập Luật tạng, tôn giả đại Ca Diếp đứng đầu coi việc giải thích đạo lý trong Kinh, làm thành bộ Luận tạng. Gọi chung là Tam Tạng (Tripitaka).

Một trăm năm sau, trong giáo đoàn có sự tranh luận về cách giữ giới luật và cách hành đạo. Các vị trưởng lão Thượng toạ triệu tập cuộc kết tập lần thứ hai ở thành Xá Vệ, đề cử Thượng Toạ Yaca làm Thủ toạ. Kết quả phái Thượng toạ trưởng lão vẫn giữ phương thức bảo thủ, phái đại chúng giữ phương thức Tiến Thủ. Nhưng cả hai không rời tôn chỉ của Phật.

Sơ lược các tông phái Phật giáo
Các tông phái Phật Giáo

Vào khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt, vua Asoka ( A Dục Vương 227 – 274 trước Tây lịch ) triệu tập cuộc kết tập lần thứ ba ở thành Pataliputra.

Vào khoảng 500 năm sau Phật nhập diệt (thế kỷ I sau Tây Lịch) vua xứ Nhục Chi là Kanisnka, giữ bá quyền vùng Tây Bắc Ấn Độ, rất sùng đạo, triệu tập cuộc kết tập lần thứ tư ở thành Jalandhara, do hai Thượng Toạ Pârcya và Vasumitra làm Thủ toạ, đây là cuộc kết tập lần cuối cùng.

Từ đó trong Phật giáo có hai tông phái lớn là: Tiểu Thừa và Đại Thừa, hai bên tuy phân biệt ra như thế nhưng vẫn theo tôn chỉ của Phật. Đại Thừa thì theo tinh thần Phật dạy mà tiến hóa hợp hợp khế cơ. Tiểu Thừa thì một mực trì thủ lời Phật trong các kinh chứ không thay đổi.

Hiện nay theo các kinh của Hán Tạng thì có 11 tông phái đang hoàng pháp.

B. Các tông phái

I. Tông Phái Tiểu Thừa

1. Câu Xá Tông

Do ngài Thế Thân Bồ Tát lấy ý nghĩa trong kinh Đại Tỳ Bà Sa (Mahahvibhasacastra) viết thành bộ Câu Xá Luận, được Ngài Trần Châu dịch rồi truyền sang Trung Hoa rất sớm nhung sau đó thất truyền. Đến khi Ngài Huyền Trang sau chuyến Tây du thỉnh kinh mới đem về dịch lại bộ luật này, rồi đệ tử Ngài là Phổ Quang dựa vào mà làm nên “ Câu Xá thuật ký ” và Ngài Pháp Bảo làm bộ “ Câu Xá luận sớ ” thì Câu xá mới thành một tông phái là Tông Câu Xá nhưng chỉ thịnh hành đến cuối thế kỷ thứ IX thì suy vong và nhường chỗ cho các tông phái Đại thừa.

Câu Xá Tông chia vạn hữu ra thành Vô Vi Pháp và Hữu Vi Pháp. Vô Vi Pháp chỉ về cảnh giới thường trụ không sinh không diệt, tức là lý thể. Hữu Vi Pháp chỉ về vạn hữu trong hiện tượng giới sinh diệt vô thường.

Căn bản giải thoát dùng Giới, Định, Tuệ để hiểu rõ lý nhân quả của Tứ Diệu Đế. Dùng tam học ấy mà đi tới giải thoát tức là vào Niết bàn.

2. Thành Thực Tông

Tông này đồng thời với Câu Xá Tông, do ngài Ha Lê Bạt Ma (Harivarma) y vào ý nghĩa Bộ Thành Thật Luận mà lập ra vào khoảng 900 năm sau khi Đức Phật nhập diệt.

Thành Thực Tông chia thế giới quan ra làm hai môn: Thế giới môn và đệ nhất nghĩa môn.

Tông này chủ trương “Nhân không và Pháp không”. Người và Pháp cả hai đều không. Thi hành  Diệt đế, chân lý thứ 3 trong Tứ Diệu đế cũng đủ an lạc, giải thoát lục đạo.

II. Tông Phái vừa Tiểu Thừa vừa Đại thừa

1. Luật tông

Tông này lấy giới luật làm căn bản. Đến đời Đường, Ngài Trí Thủ luận sư chú giải những bộ luật (Thập tụng luật, Tứ phần luật, Ngũ phần luật, Tăng kỷ luật) và đệ tử của Ngài, Đạo Tuyên luận sư nhận thấy có 68 bộ Luật tứ phần  hợp với căn cơ của người Trung Hoa nên đã căn cứ vào bộ luật nầy mà lập “ Luật tông ”.

Luật tông chủ trương lấy tu rồi sẽ hiểu, hãy giữ giới cho nghiêm tịnh thì tâm sẽ định tĩnh thanh tịnh và trí tuệ sẽ phát sinh, chân tâm sẽ hiễn bày, Phật tánh sẽ hiễn lộ.

2. Thiền Tông

Tông nầy nguyên thuỷ thuộc về Không Bộ bên Tiểu Thừa. Thiền Tông không bàn luận về vũ trụ, căn bản là ngộ đạo mà thôi (giải thoát), là một tông phái lấy tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.

Thiền Tông chủ trương “ bất lập văn tự ”, chỉ cốt “ tâm truyền tâm ”, thực tướng của vũ trụ thuộc về trực giác. Nếu lấy văn tự mà giải thích thì tất cả sa vào hiện tượng giới, không thể đạt tới thực tướng được. Phi tọa thiền và trực giác thì không sao biết được thực tướng.

III. Sáu Tông Đại Thừa

1. Pháp Tướng tông

Tông này lấy Thành Duy Thức Luận làm gốc, tại Ấn độ do Ngài Thế Thân phát triển và tại Trung Hoa do Ngài Huyền Trang truyền bá sau chuyến Tây du thỉnh kinh trở về.

Chủ trương vạn Pháp đều do thức biến ra. (Tam giới duy tâm, vạn Pháp duy thức) Thức có 8: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức, Mạt Na Thức. Trong 8 thức thì A Lại Gia Thức là căn bản, vì chứa hết thảy Chủng Tử để sinh khởi nhất thiết chư Pháp.

2. Tam Luận Tông

Tông này lấy Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận của Ngài Long Thọ Bồ Tát và Bách Luận của Ngài Đề Bà làm căn bản, chủ trương là phá chấp nêu bày chánh lý với phương pháp tu hành là phá sự chấp trước của ngọai đạo để chứng ngộ chân lý bằng cách quán pháp “Bát bất trung đạo”.

Về phương diện đạo lý, Tam Luận tông  giống như cửa ải muốn tiến bước trên con đường giải thoát phải buông bỏ “Chấp trước”, nếu không muốn bị phát hiện món hàng quốc cấm đó khi qua ải.

3. Thiên Thai Tông (Pháp hoa tông)

Tông này khởi phát ở Trung Hoa, do ngài Huệ Văn Thiền Sư đời Trần và đời Tuỳ (vào khoảng thế kỷ thứ 6) theo ý nghĩa bộ Trí Độ Luận tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa luận và lấy Pháp Hoa Kinh làm gốc, nên còn gọi là Pháp Hoa Tông.

Thiên Thai chủ trương thuyết “ Chư Pháp duy nhất tâm ”. Tâm ấy tức là chúng sanh, tâm ấy tức là Bồ Tát, Phật sinh tử hay Niết Bàn cũng ở nơi tâm ấy. Khi đã thấu suốt chân lý là chân lý là giải thoát lý chấp trước. Cuối cùng phải triệt ngộ thật tướng của vũ trụ. Do vô vi, do niệm đạt tới sự hoạt động của đại ngã, đại vi.

4. Hoa Nghiêm Tông (hay Hiền Thủ tông)

Tông này cũng phát khởi ở Trung Hoa căn cứ ở Hoa Nghiêm Kinh do Đỗ Thuận và Trí Nghiêm Hoà Thượng ở đời Tuỳ và Đường lập ra, người có công kế thưà và xiển dương là  là Ngài Pháp tạng còn gọi là Hiền Thủ.

Tông này theo chủ trương “ Pháp giới duyên khởi ” Vạn hữu có tam đối lục tướng là do thập huyền môn, thập huyền diệu, lý duyên khởi và lục tướng viên dung mà phát sinh lý “ Sự sự vô ngại ”. Đây là cái đặc sắc của giáo lý Hoa Nghiêm Tông.

Theo Tông này thì phân biệt chân vọng dứt trừ điên đảo. Để tâm thanh tịnh cùng thực tại Nhất Như là giải thoát.

5. Mật tông (hay Chân Ngôn Tông)

Tông này căn cứ ở Đại Nhật Kinh, lấy bí mật Chân Ngôn làm Tông chỉ, nên cũng gọi là Mật Tông.

Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cương Tát Đỏa, Kim Cương Tát Đỏa truyền cho Long Trí, Long Trí truyền cho Kim Cương trí, Kim Cương Trí cùng với Bất Không đem qua trung Hoa vào khoảng đời Đường. Chân Ngôn Tông chủ trương thuyết Lục đại : Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức. Cho lục đại là thực của vũ trụ.

Sự giải thoát của Tông nầy là do tự thân thành Phật, cho nên bỏ hết chấp trước mà theo cái hoạt động của Đại ngã với phương thức Tam mật (Thân, Khẩu, Ý).

6. Tịnh Độ Tông

Tông nầy lấy việc quy y tịnh độ làm mục đích, chuyên trì tụng các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, A Di Đà. Tịnh Độ Tông phát khởi từ đời nào không rõ, chỉ thấy trong kinh điển ghi các vị Bồ Tát Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân khuyên mọi người nên tu Tịnh Độ. Tịnh Độ Tông cho rằng mỗi người ai cũng có Phật tính, đều có thể thành Phật, vì ở thế gian phiền não nên cầu về cõi Cực Lạc Tây Phương. Vì tự lực khó đạt nên càu tha lực Đức Phật A Di Đà.

Phật giáo có hai tông phái lớn là Đại Thừa và Tiểu Thừa. Ở mỗi tông phái chia ra thành nhiều phái khác nhau.

A. Sự hình thành các tông phái

Sau khi Phật nhập Niết Bàn một trăm ngày, có 500 vị Thượng Toạ trưởng lão (Sthavias) tổ chức cuộc kết tập lần đầu trong hang Saltapanni rừng nigradha cử Tôn giả Ma Ha Ca Diếp làm Thủ tọa, ngài A Nan trùng tuyên những lời Phật dạy làm thành tạnh kinh, cử Ngài Ưu Ba Li đọc lại các điều răn của Phật để kết tập Luật tạng, tôn giả đại Ca Diếp đứng đầu coi việc giải thích đạo lý trong Kinh, làm thành bộ Luận tạng. Gọi chung là Tam Tạng (Tripitaka).

Một trăm năm sau, trong giáo đoàn có sự tranh luận về cách giữ giới luật và cách hành đạo. Các vị trưởng lão Thượng toạ triệu tập cuộc kết tập lần thứ hai ở thành Xá Vệ, đề cử Thượng Toạ Yaca làm Thủ toạ. Kết quả phái Thượng toạ trưởng lão vẫn giữ phương thức bảo thủ, phái đại chúng giữ phương thức Tiến Thủ. Nhưng cả hai không rời tôn chỉ của Phật.

Sơ lược các tông phái Phật giáo
Các tông phái Phật Giáo

Vào khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt, vua Asoka ( A Dục Vương 227 – 274 trước Tây lịch ) triệu tập cuộc kết tập lần thứ ba ở thành Pataliputra.

Vào khoảng 500 năm sau Phật nhập diệt (thế kỷ I sau Tây Lịch) vua xứ Nhục Chi là Kanisnka, giữ bá quyền vùng Tây Bắc Ấn Độ, rất sùng đạo, triệu tập cuộc kết tập lần thứ tư ở thành Jalandhara, do hai Thượng Toạ Pârcya và Vasumitra làm Thủ toạ, đây là cuộc kết tập lần cuối cùng.

Từ đó trong Phật giáo có hai tông phái lớn là: Tiểu Thừa và Đại Thừa, hai bên tuy phân biệt ra như thế nhưng vẫn theo tôn chỉ của Phật. Đại Thừa thì theo tinh thần Phật dạy mà tiến hóa hợp hợp khế cơ. Tiểu Thừa thì một mực trì thủ lời Phật trong các kinh chứ không thay đổi.

Hiện nay theo các kinh của Hán Tạng thì có 11 tông phái đang hoàng pháp.

B. Các tông phái

I. Tông Phái Tiểu Thừa

1. Câu Xá Tông

Do ngài Thế Thân Bồ Tát lấy ý nghĩa trong kinh Đại Tỳ Bà Sa (Mahahvibhasacastra) viết thành bộ Câu Xá Luận, được Ngài Trần Châu dịch rồi truyền sang Trung Hoa rất sớm nhung sau đó thất truyền. Đến khi Ngài Huyền Trang sau chuyến Tây du thỉnh kinh mới đem về dịch lại bộ luật này, rồi đệ tử Ngài là Phổ Quang dựa vào mà làm nên “ Câu Xá thuật ký ” và Ngài Pháp Bảo làm bộ “ Câu Xá luận sớ ” thì Câu xá mới thành một tông phái là Tông Câu Xá nhưng chỉ thịnh hành đến cuối thế kỷ thứ IX thì suy vong và nhường chỗ cho các tông phái Đại thừa.

Câu Xá Tông chia vạn hữu ra thành Vô Vi Pháp và Hữu Vi Pháp. Vô Vi Pháp chỉ về cảnh giới thường trụ không sinh không diệt, tức là lý thể. Hữu Vi Pháp chỉ về vạn hữu trong hiện tượng giới sinh diệt vô thường.

Căn bản giải thoát dùng Giới, Định, Tuệ để hiểu rõ lý nhân quả của Tứ Diệu Đế. Dùng tam học ấy mà đi tới giải thoát tức là vào Niết bàn.

2. Thành Thực Tông

Tông này đồng thời với Câu Xá Tông, do ngài Ha Lê Bạt Ma (Harivarma) y vào ý nghĩa Bộ Thành Thật Luận mà lập ra vào khoảng 900 năm sau khi Đức Phật nhập diệt.

Thành Thực Tông chia thế giới quan ra làm hai môn: Thế giới môn và đệ nhất nghĩa môn.

Tông này chủ trương “Nhân không và Pháp không”. Người và Pháp cả hai đều không. Thi hành  Diệt đế, chân lý thứ 3 trong Tứ Diệu đế cũng đủ an lạc, giải thoát lục đạo.

II. Tông Phái vừa Tiểu Thừa vừa Đại thừa

1. Luật tông

Tông này lấy giới luật làm căn bản. Đến đời Đường, Ngài Trí Thủ luận sư chú giải những bộ luật (Thập tụng luật, Tứ phần luật, Ngũ phần luật, Tăng kỷ luật) và đệ tử của Ngài, Đạo Tuyên luận sư nhận thấy có 68 bộ Luật tứ phần  hợp với căn cơ của người Trung Hoa nên đã căn cứ vào bộ luật nầy mà lập “ Luật tông ”.

Luật tông chủ trương lấy tu rồi sẽ hiểu, hãy giữ giới cho nghiêm tịnh thì tâm sẽ định tĩnh thanh tịnh và trí tuệ sẽ phát sinh, chân tâm sẽ hiễn bày, Phật tánh sẽ hiễn lộ.

2. Thiền Tông

Tông nầy nguyên thuỷ thuộc về Không Bộ bên Tiểu Thừa. Thiền Tông không bàn luận về vũ trụ, căn bản là ngộ đạo mà thôi (giải thoát), là một tông phái lấy tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.

Thiền Tông chủ trương “ bất lập văn tự ”, chỉ cốt “ tâm truyền tâm ”, thực tướng của vũ trụ thuộc về trực giác. Nếu lấy văn tự mà giải thích thì tất cả sa vào hiện tượng giới, không thể đạt tới thực tướng được. Phi tọa thiền và trực giác thì không sao biết được thực tướng.

III. Sáu Tông Đại Thừa

1. Pháp Tướng tông

Tông này lấy Thành Duy Thức Luận làm gốc, tại Ấn độ do Ngài Thế Thân phát triển và tại Trung Hoa do Ngài Huyền Trang truyền bá sau chuyến Tây du thỉnh kinh trở về.

Chủ trương vạn Pháp đều do thức biến ra. (Tam giới duy tâm, vạn Pháp duy thức) Thức có 8: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức, Mạt Na Thức. Trong 8 thức thì A Lại Gia Thức là căn bản, vì chứa hết thảy Chủng Tử để sinh khởi nhất thiết chư Pháp.

2. Tam Luận Tông

Tông này lấy Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận của Ngài Long Thọ Bồ Tát và Bách Luận của Ngài Đề Bà làm căn bản, chủ trương là phá chấp nêu bày chánh lý với phương pháp tu hành là phá sự chấp trước của ngọai đạo để chứng ngộ chân lý bằng cách quán pháp “Bát bất trung đạo”.

Về phương diện đạo lý, Tam Luận tông  giống như cửa ải muốn tiến bước trên con đường giải thoát phải buông bỏ “Chấp trước”, nếu không muốn bị phát hiện món hàng quốc cấm đó khi qua ải.

3. Thiên Thai Tông (Pháp hoa tông)

Tông này khởi phát ở Trung Hoa, do ngài Huệ Văn Thiền Sư đời Trần và đời Tuỳ (vào khoảng thế kỷ thứ 6) theo ý nghĩa bộ Trí Độ Luận tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa luận và lấy Pháp Hoa Kinh làm gốc, nên còn gọi là Pháp Hoa Tông.

Thiên Thai chủ trương thuyết “ Chư Pháp duy nhất tâm ”. Tâm ấy tức là chúng sanh, tâm ấy tức là Bồ Tát, Phật sinh tử hay Niết Bàn cũng ở nơi tâm ấy. Khi đã thấu suốt chân lý là chân lý là giải thoát lý chấp trước. Cuối cùng phải triệt ngộ thật tướng của vũ trụ. Do vô vi, do niệm đạt tới sự hoạt động của đại ngã, đại vi.

4. Hoa Nghiêm Tông (hay Hiền Thủ tông)

Tông này cũng phát khởi ở Trung Hoa căn cứ ở Hoa Nghiêm Kinh do Đỗ Thuận và Trí Nghiêm Hoà Thượng ở đời Tuỳ và Đường lập ra, người có công kế thưà và xiển dương là  là Ngài Pháp tạng còn gọi là Hiền Thủ.

Tông này theo chủ trương “ Pháp giới duyên khởi ” Vạn hữu có tam đối lục tướng là do thập huyền môn, thập huyền diệu, lý duyên khởi và lục tướng viên dung mà phát sinh lý “ Sự sự vô ngại ”. Đây là cái đặc sắc của giáo lý Hoa Nghiêm Tông.

Theo Tông này thì phân biệt chân vọng dứt trừ điên đảo. Để tâm thanh tịnh cùng thực tại Nhất Như là giải thoát.

5. Mật tông (hay Chân Ngôn Tông)

Tông này căn cứ ở Đại Nhật Kinh, lấy bí mật Chân Ngôn làm Tông chỉ, nên cũng gọi là Mật Tông.

Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cương Tát Đỏa, Kim Cương Tát Đỏa truyền cho Long Trí, Long Trí truyền cho Kim Cương trí, Kim Cương Trí cùng với Bất Không đem qua trung Hoa vào khoảng đời Đường. Chân Ngôn Tông chủ trương thuyết Lục đại : Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức. Cho lục đại là thực của vũ trụ.

Sự giải thoát của Tông nầy là do tự thân thành Phật, cho nên bỏ hết chấp trước mà theo cái hoạt động của Đại ngã với phương thức Tam mật (Thân, Khẩu, Ý).

6. Tịnh Độ Tông

Tông nầy lấy việc quy y tịnh độ làm mục đích, chuyên trì tụng các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, A Di Đà. Tịnh Độ Tông phát khởi từ đời nào không rõ, chỉ thấy trong kinh điển ghi các vị Bồ Tát Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân khuyên mọi người nên tu Tịnh Độ. Tịnh Độ Tông cho rằng mỗi người ai cũng có Phật tính, đều có thể thành Phật, vì ở thế gian phiền não nên cầu về cõi Cực Lạc Tây Phương. Vì tự lực khó đạt nên càu tha lực Đức Phật A Di Đà.

Phật giáo

Đôi nét về đạo Phật và Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên, trong điều kiện xã hội phân chia theo chế độ đẳng cấp bất bình đẳng. Đạo Phật ra đời là sự kế thừa, tiếp nối các trào lưu tôn giáo, triết học nổi tiếng của Ấn Độ cổ đại và được coi là một trong những học thuyết xã hội chống lại sự bất công trong xã hội đương thời.

1558

Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên, trong điều kiện xã hội phân chia theo chế độ đẳng cấp bất bình đẳng. Đạo Phật ra đời là sự kế thừa, tiếp nối các trào lưu tôn giáo, triết học nổi tiếng của Ấn Độ cổ đại và được coi là một trong những học thuyết xã hội chống lại sự bất công trong xã hội đương thời.

Đôi nét về đạo Phật

Người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa (Shidartha) sinh năm 624 trước công nguyên thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh Phạn Vương Đầu Đà Na (Sudhodana) trị vì nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavasu) xứ Trung Ấn Độ lúc đó và hoàng hậu Ma Da (Maya). Dù sống trong cuộc đời vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự đau khổ của nhân sinh, vô thường của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm tìm ra căn nguyên của đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Sau nhiều năm tìm thày học đạo, Thái Tử nhận ra rằng phương pháp tu hành của các vị đó đều không thể giải thoát cho con người hết khổ được. Cuối cùng, Thái tử đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ đề và thề rằng “Nếu Ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”. Sau 49 ngày đêm thiền định, Thái tử đã đạt được Đạo vô thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó là ngày 08 tháng 12 năm Đức Phật 31 tuổi.

Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri thức để xây dựng cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật không công nhận có một đấng tối cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc hay giáng hoạ cho ai mà trong cuộc sống mỗi người đều phải tuân theo luật Nhân – Quả, làm việc thiện thì được hưởng phúc và làm việc ác thì phải chịu báo ứng. Đạo Phật còn thể hiện là một tôn giáo tiến bộ khi không có thái độ phân biệt đẳng cấp. Đức Phật đã từng nói: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ như nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn”. Ngoài ra, đạo Phật cũng thể hiện tinh thần đoàn kết và không phân biệt giữa người tu hành và tín đồ, quan điểm của đạo Phật là “Tứ chúng đồng tu”, đó là Tăng, Ni, Phật tử nam và Phật tử nữ đều cùng được tu và nếu ai có quyết tâm đều có thể thành tựu như Đức Phật.

Khác với một số tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Phật chủ trương không có hệ thống tổ chức thế giới và hệ thống giáo quyền. Điều này xuất phát từ lý do Đức Phật hiểu rõ sự ham muốn quyền lực của con người, do đó Đức Phật chủ trương không giao giáo quyền quản lý cho ai mà chỉ hướng dẫn đệ tử nương vào giáo lý, giáo luật để duy trì và tồn tại theo hệ thống sơn môn (như dòng họ thế tục ngoài đời).

Một đặc điểm nổi bật của đạo Phật là một tôn giáo hoà bình, hữu nghị, hợp tác. Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật du nhập vào trên 100 nước trên thế giới, ở hầu khắp các châu lục nhưng luôn với trạng thái ôn hoà, chưa bao giờ đi liền với chiến tranh xâm lược hay xảy ra các cuộc thánh chiến. Tính đến năm 2008, đạo Phật có khoảng 350 triệu tín đồ và hàng trăm triệu người có tình cảm, tín ngưỡng và có ảnh hưởng bởi văn hoá, đạo đức Phật giáo.

Về giáo lý, giáo luật, lễ nghi của đạo Phật:

Kinh sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng (Tam tạng kinh điển):

– Kinh tạng: là những sách ghi chép lời Phật giảng dạy về giáo lý, còn gọi là Khế kinh, có nghĩa như là một chân lý.

– Luật tạng: là sách ghi chép những giới luật của Phật chế định dành cho 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia phải tuân theo trong quá trình sinh hoạt và tu học, đặc biệt là các quy định đối với hàng đệ tử xuất gia.

– Luận tạng: là sách giảng giải ý nghĩa về kinh, luật.

Về số lượng, kinh sách của Phật giáo được coi là một kho tàng vĩ đại. Riêng Đại tạng kinh có gần 10.000 pho sách, ngoài ra còn rất nhiều những trước tác, bình luận, giải thích giáo lý và rất nhiều các lĩnh vực khác, như: Văn học, triết học, nghệ thuật, luân lý học được truyền bá khắp thế giới và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nguyên bản thì chép bằng chữ Pali và chữ Phạn.

Giáo lý:

Giáo lý của đạo Phật có rất nhiều nhưng đều xuất phát từ thực tế cuộc sống, không trừu tượng, siêu hình, giáo điều hay khiên cưỡng, không ép buộc mà hoàn toàn chỉ mang tính định hướng để cho mọi người tuỳ điều kiện, hoàn cảnh, nhận thức áp dụng linh hoạt để dù tu theo cách nào trong 84.000 pháp môn tu Đức Phật đã chỉ ra thì cuối cùng cũng đạt đến mục đích sống yên vui, ấm no và hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình và xã hội.

Giáo lý cơ bản của đạo Phật có 2 vấn đề quan trọng, đó là Lý Nhân duyên và Tứ Diệu đế (4 chân lý).

Lý Nhân duyên

Phật giáo quan niệm các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng theo quy luật Thành – Trụ – Hoại – Không (mỗi sự vật đều có quá trình hình thành, phát triển và tồn tại một thời gian, rồi biến chuyển đi đến huỷ hoại và cuối cùng là tan biến, ví như một làn sóng, khi mới nhô lên gọi là “thành”, khi nhô lên cao nhất gọi là “trụ”, khi hạ dần xuống gọi là “hoại”, đến khi tan rã lại trở về “không”) và đều bị chi phối bởi quy luật nhân – duyên, trong đó nhân là năng lực phát sinh, là mầm để tạo nên quả và duyên là sự hỗ trợ, là phương tiện cho nhân phát sinh, nảy nở. Tuỳ vào sự kết hợp giữa nhân và duyên mà tạo thành các sự vật, hiện tượng khác nhau. Có hay không một hiện tượng, sự vật là do sự kết hợp hay tan rã của nhiều nhân, nhiều duyên. Nhân và duyên cũng không phải tự nhiên có mà nó được tạo ra bởi sự vận động của các sự vật, hiện tượng và quá trình hợp – tan của các nhân – duyên có trước để tạo ra nhân – duyên mới, Phật giáo gọi đó là tính “trùng trùng duyên khởi”.

Về con người, Phật giáo cho rằng cũng không nằm ngoài quy luật: Thành – Trụ – Hoại – Không, hay nói cách khác bất cứ ai cũng phải tuân theo quy luật: Sinh – Trụ – Dị – Diệt (đó là chu trình con người được sinh ra, lớn lên, tồn tại, thay đổi theo thời gian và cuối cùng là diệt vong). Khi con người mất đi thì tinh thần cũng theo đó mà tan biến. Phật giáo không công nhận một linh hồn vĩnh cửu, tách rời thân thể để chuyển từ kiếp này sang kiếp khác.

Phật giáo quan niệm con người được sinh ra không phải là sản phẩm của một đấng tối cao nào đó, càng không phải tự nhiên mà có. Sự xuất hiện của một người là do nhiều nhân, nhiều duyên hội hợp và người đó không còn tồn tại khi nhân duyên tan rã. Nhân – duyên ở đây được Phật giáo khái quát thành một chuỗi 12 nhân duyên (thập nhị nhân duyên), là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi: 1) Vô minh; 2) Hành; 3)Thức; 4) Danh sắc; 5) Lục nhập; 6) Xúc; 7) Thụ; 8) Ái; 9) Thủ; 10) Hữu; 11) Sinh; 12) Lão tử. Trong đó, Vô minh là duyên của “Hành”, Hành là duyên của “Thức”, Thức là duyên của “Danh sắc”, Danh sắc là duyên của “Lục nhập”, Lục nhập là duyên của “Xúc”, Xúc là duyên của “Thụ”, Thụ là duyên của “Ái”, Ái là duyên của “Thủ”, Thủ là duyên của “Hữu”, Hữu là duyên của “Sinh”, Sinh là duyên của “Lão tử”. Phật giáo cho rằng 12 nhân duyên có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, cái này là quả của cái trước nhưng lại là nhân, là duyên cho cái sau. Trong chuỗi nhân duyên, Phật giáo chú trọng nhấn mạnh tới yếu tố “vô minh”, hiểu theo nghĩa đen là một màn đêm u tối, không có ánh sáng dẫn đường, không biết lối mà đi; hiểu theo nghĩa bóng đó là sự thiếu hiểu biết của con người về thế giới khách quan, về bản chất chân thực của sự vật hiện tượng dẫn tới nhìn nhận thiên kiến, thiển cận, phiến diện, chấp ngã, đề cao cái “Ta”, từ đó dẫn dắt đến hành động sai trái, tạo nên nghiệp xấu, gây nên “nhân” xấu, sinh ra “quả” xấu, làm cho con người phải chịu đau khổ, mãi quẩn quanh trong vòng sinh tử luân hồi. Do đó, để có thể thụ hưởng yên vui, an lạc trong cuộc đời con người phải học tập, lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp) để xoá bỏ “vô minh”, tạo ra những nhân, duyên tốt để gieo trồng nên quả ngọt.

Phật giáo quan niệm mọi sự vật luôn luôn biến chuyển, đổi thay, mọi thứ ta có, ta nhìn thấy đều chỉ là vô thường. Vô thường là không thường xuyên, mãi mãi ở trong một trạng thái nhất định mà nó sẽ luôn biến đổi, tồn tại hay không tồn tại, có hay không có đó chỉ là vấn đề thời gian. Khi đầy đủ nhân duyên hội hợp thì sự vật hiện hữu, gọi là “có”; khi nhân duyên tan rã thì sự vật biến diệt, lại trở về là “không”. Muôn vật từ nhân duyên mà sinh và cũng do nhân duyên mà diệt. Lý nhân duyên làm cho ta thấy con người là một đấng tạo hoá tự tạo ra đời sống của mình, con người làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc đời con người vui sướng hay phiền não đều do nhân và duyên mà con người tự tạo ra chi phối. Từ cách nhìn nhận đó, Đức Phật khuyên con người sống hướng thiện, thực hiện tâm từ bi, biết yêu thương và chia sẻ, vì hạnh phúc của mọi người và hạnh phúc của mình, sống tự tại an lạc, không cố chấp bám víu vào sự vật, hiện tượng, không bị ảnh hưởng, chi phối bởi sự vô thường của cuộc sống.

Tứ diệu đế

Khi còn là Thái Tử, Đức Phật đã nhận ra cuộc đời đầy rẫy sự đau khổ, do đó Ngài đã quyết chí ra đi tu hành để lý giải vì sao con người ta lại đau khổ và làm sao để thoát khổ. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã nhận rõ căn nguyên nguồn cội của sự khổ đau và phương pháp để diệt trừ nó, Đức Phật đã đem kiến thức của mình truyền bá và hướng dẫn cho người xung quanh thực hành.
Song giai đoạn đầu truyền bá không thành công vì lý lẽ Đức Phật nói ra quá cao siêu mà trình độ của những người nghe đa số còn hạn hẹp nên họ không hiểu, dần dần rời bỏ khỏi những buổi thuyết pháp của Phật. Từ đó Phật đã chuyển đổi phương pháp giảng đạo từ tư duy lý luận sang hướng dẫn thực hành, đó là pháp môn Tứ diệu đế.
Tứ diệu đế đã trở thành giáo lý căn bản, xuyên suốt trong toàn bộ kinh điển Phật giáo. Tứ diệu đế bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.

– Khổ đế: Đức Phật chỉ ra rằng, con người ta sống ở trên đời ai cũng phải gặp những điều đau khổ. Ngài đã khái quát cái khổ của con người thành 8 loại khổ (bát khổ):

+ Sinh (sinh ra đời và tồn tại cũng phải trải qua những đau khổ);

+ Lão (tuổi già sức yếu là khổ);

+ Bệnh (đau ốm là khổ);

+ Tử (chết là khổ);

+ Ái biệt ly khổ (những người thân yêu phải xa nhau là khổ);

+ Oán tăng hội khổ (những người có oán thù mà phải gặp gỡ cũng khổ);

+ Cầu bất đắc khổ (điều mong cầu không toại nguyện là khổ);

+ “Ngũ ấm xí thịnh khổ” (thân ngũ đại của con người được gọi là thân ngũ ấm, đó là: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Thân ngũ đại của con người luôn bị chi phối, khổ sở bởi luật vô thường, bởi thất tình, lục dục lôi cuốn… làm cho khổ sở).

Đức Phật nói Khổ đế không phải để làm cho con người buồn chán, bi quan mà trái lại, làm cho mọi người nhìn rõ về quy luật và thực tế của cuộc sống để trân trọng những gì mình có, khi gặp cảnh khổ cũng không hoảng loạn mà điềm tĩnh đón nhận, không bị hoàn cảnh chi phối, tìm phương án giải quyết cho tốt đẹp.

– Tập đế: nguyên nhân tạo thành những nỗi khổ hiện hữu ở đời, Đức Phật gọi là Tập đế. Đức Phật khái quát nguyên nhân nỗi khổ thành “Thập kết sử” (mười điều cốt lõi làm cho con người bị khổ đau), đó là: tham (tham lam), sân (giận dữ), si (si mê), mạn (kiêu ngạo), nghi (nghi ngờ), thân kiến (chấp ngã), biên kiến (hiểu biết không đầy đủ, cực đoan), tà kiến (hiểu không đúng, mê tín dị đoan…), kiến thủ (bảo thủ về ý kiến của mình), giới cấm thủ (làm theo lời răn cấm của tà giáo). 10 điều này đều có thể ở chính ngay trong con người và gây nên đau khổ, tuy nhiên Đức Phật nhấn mạnh đến 3 điều: Tham – Sân – Si, Phật giáo gọi là “Tam độc” là nguyên nhân chính của sự khổ đau.

– Diệt đế: Đức Phật chỉ ra kết quả an vui, hạnh phúc đạt được khi con người diệt trừ hết những nỗi khổ, muốn diệt khổ phải diệt tận gốc, đó là diệt cái nguyên nhân gây ra đau khổ.

– Đạo đế: là những phương pháp Đức Phật hướng dẫn để chúng sinh thực hành diệt khổ, được vui. Đây là phần quan trọng nhất trong Tứ diệu đế, vì khi biết rõ đau khổ, nguyên nhân của đau khổ, mong muốn được thoát khổ để đạt đến cảnh giới an vui nhưng nếu không có phương pháp hiệu nghiệm để thực hiện ý muốn ấy thì không giải quyết được vấn đề và càng thêm đau khổ. Do đó, Đạo đế đã được Đức Phật rất chú trọng, quan tâm để tuỳ căn cơ của chúng sinh mà phân tích cụ thể để hướng dẫn mọi người thực hiện cho phù hợp với bản thân mình.

Đạo đế có 37 phẩm chia làm 7 loại, đó là:

– Tứ niệm xứ (bốn điều mà người tu hành thường xuyên nghĩ đến): quán thân bất tịnh; quán tâm vô thường; quán pháp vô ngã; quán thọ thị khổ.

– Tứ chánh cần (bốn phép siêng năng chân chính để tinh tấn tu hành): tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh; tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sinh; tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh; tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.

– Tứ như ý túc (bốn phép thiền định để việc tu hành được phát triển): Dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, nhất tâm như ý túc và quán như ý túc.

– Ngũ căn (năm điều căn bản giúp người tu hành đạt chính quả): Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn.

– Ngũ lực (năm năng lực để cùng ngũ căn giúp người tu hành đạt chính quả): Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực và huệ lực.

– Thất bồ đề phần (bảy pháp tu tập giúp người tu hành thành tựu đạo quả đại giác): Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả.

– Bát chính đạo (8 con đường chân chính hợp với chân lý Tứ đế để tiến tới đạo Niết bàn, thoát khỏi khổ đau, đó là: Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến, chính niệm và chính định). Trong 37 nội dung trợ đạo như đã nói ở trên, Bát chính đạo được coi là pháp môn chính quan trọng nhất, nó phù hợp với mọi căn cơ, nhận thức, mọi thời đại và mọi người. Giá trị của Bát chính đạo là giúp người ta tu dưỡng thân tâm, cải thiện hoàn cảnh, thoát khỏi khổ đau, phiền não, bước lên con đường giải thoát, an vui, tự tại.

* Giáo luật

Giáo luật Phật giáo được Đức Phật chế ra xuất phát từ thực tế trong khi điều hành Tăng đoàn với những điều quy định, cấm nhằm duy trì tổ chức tăng đoàn, hướng mọi người tới chân – thiện – mỹ, phát triển hạnh từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha, biết làm lành lánh dữ để đạt tới giác ngộ và giải thoát.
Cốt lõi của giáo luật Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.

– Ngũ giới là 5 giới cấm:

+ Không sát sinh; 

+ Không nói sai sự thật;

+ Không tà dâm;

+ Không trộm cắp;

+ Không uống rượu.

– Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó:

+ Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm;

+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói điều ác, không nói thêu dệt;

+ Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.

Trên cơ sở của quy định Ngũ giới và Thập thiện, Phật giáo đã quy định chi tiết và cụ thể đối với từng loại xuất gia.

– Đối với hàng đệ tử xuất gia đã thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni:

Theo Luật Tứ phận thì kinh Giới bản quy định:

+ Tỳ kheo phải giữ 250 giới.

+ Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới.

Theo Nam truyền Luật tạng thì:

+ Tỳ kheo phải giữ 227 giới

– Đối với hàng đệ tử xuất gia còn ở bậc Sa di phải giữ 10 giới. Ngoài ngũ giới như đã nói ở trên, người tu ở bậc Sa di còn phải giữ thêm 5 giới nữa là:

+ Không trang điểm, không bôi nước hoa hay xức dầu thơm.

+ Không nằm giường đệm cao sang, giường rộng dùng cho hai người.

+ Không xem ca hát nhảy múa và cũng không được ca hát nhảy múa.

+ Không giữ vàng bạc.

+ Không ăn phi thời (quá giờ quy định).

Tăng Ni phải nương vào giới luật để làm mực thước sinh hoạt hàng ngày.

– Đối với Phật tử tại gia:

Sau khi thụ Tam quy (quy Phật, quy Pháp, quy Tăng) người Phật tử cần trì Ngũ giới để ngăn cấm những tưởng niệm ác, hành động bất chính, gieo lòng từ bi, bình đẳng trong chúng sinh giúp họ được tiến trên con đường giải thoát, an lạc.

Ngoài ra người Phật tử tuỳ căn cơ, sở nguyện có thể thụ Bát quan trai giới (8 giới). Nội dung Bát quan trai giới gồm có Ngũ giới và thêm 3 điều quy định nữa:

+ Không trang điểm

+ Không dùng đồ sang trọng (giường cao rộng; không ca múa hát xướng và cũng không xem nghe …).

+ Không ăn uống không đúng giờ.

– Đạo Phật cũng đưa ra những lời khuyên, hướng dẫn mọi người trong cách sống chung, tu hành cùng giữ trọn vẹn hòa khí, ví dụ như tinh thần Lục hòa (6 điều hòa hợp):

+ Thân hòa đồng trụ

+ Giới hòa đồng tu

+ Khẩu hòa vô tranh

+ Ý hòa đồng duyệt

+ Kiến hoà đồng giải

+ Lợi hòa đồng quân

Có thể nói, giáo luật của Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với truyền thống văn hoá của các dân tộc, đặc biệt là ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Giáo luật của Phật giáo đã có đóng góp không nhỏ vào việc điều chỉnh hành vi, hình thành nhân cách, đạo đức lối sống của một bộ phận đông đảo nhân dân Việt Nam.

* Lễ nghi

Lễ nghi của Phật giáo thể hiện sự trang nghiêm, tôn kính tới người sáng lập (đức Bổn sư). Ban đầu, lễ nghi của Phật giáo khá đơn giản và đồng nhất, song cùng với quá trình phát triển, Phật giáo phân chia thành nhiều tông phái và du nhập vào các dân tộc khác nhau, hoà đồng cùng với tín ngưỡng của người dân bản địa, lễ nghi của Phật giáo dần có sự khác biệt giữa các khu vực, vùng miền…

Một số ngày lễ, kỷ niệm lớn trong năm của Phật giáo (tính theo ngày âm lịch):

– Tết Nguyên đán

– Rằm tháng giêng: lễ Thượng nguyên

– Ngày 08/02 : Đức Phật Thích Ca xuất gia

– Ngày 15/02: Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn

– Ngày 19/02: Khánh đản Đức Quán Thế Âm Bồ tát

– Ngày 21/02: Khánh đản Đức Phổ Hiền Bồ tát

– Ngày 16/3: Khánh đản Đức Chuẩn Đề Bồ tát

– Ngày 04/4: Khánh đản Đức Văn Thù Bồ tát

– Ngày 15/4: Đức Phật Thích Ca đản sinh

– Ngày 13/7: Khánh đản Đức Đại Thế Chí Bồ tát

– Ngày 14/7: Lễ Tự tứ

– Ngày 15/7 : Lễ Vu lan

– Ngày 30/7: Khánh đản Đức Địa Tạng Bồ tát

– Ngày 30/9: Khánh đản Đức Phật Dược sư

– Ngày 17/11: Khánh đản Đức Phật A Di Đà

– Ngày 08/12: Đức Phật Thích Ca thành đạo

Đối với Phật giáo Nam tông Khmer còn có một số ngày lễ theo truyền thống người Khmer, như:

– Ngày 13 – 15/4 dương lịch: Lễ mừng năm mới (CholChơnam Thmây – Tết dân tộc của người Khmer);

– Ngày 30/8 dương lịch: Lễ cúng ông bà tổ tiên (lễ Donta)…

– Đầu tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch (sau khi kết thúc khoá hạ): Lễ Dâng Y (hay lễ Dâng Bông);

– Ngày 15/10 âm lịch: Lễ cúng trăng (Okcombok).

Với những giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết, hữu nghị mà Phật giáo đóng góp cho xã hội, năm 1999, tại phiên họp thứ 54 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã công nhận Đại lễ Phật đản, tên gọi theo truyền thống của Việt Nam (hay Đại lễ Vesak, Đại lễ Tam hợp Đức Phật – theo tên gọi quốc tế để kỷ niệm ngày Phật đản sinh, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn) là lễ hội văn hoá – tôn giáo quốc tế của Liên hợp quốc. Lễ hội này được tổ chức hàng năm tại trụ sở Liên hợp quốc và các trung tâm Liên hợp quốc trên thế giới.

Tổ chức của Phật Giáo

Phật giáo chủ trương không có giáo quyền, không công nhận thần quyền, không có tổ chức theo hệ thống thế giới. Ban đầu Phật giáo chỉ có những nhóm người cùng nhau đi truyền giáo, gọi là Tăng già hoặc Tăng đoàn hay Giáo đoàn. Tăng già có từ 4 người trở lên. Thành phần của đoàn thể Tăng già có thể bao gồm cả 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia.

Đứng đầu đoàn thể Tăng già là một vị Trưởng lão đạo cao đức trọng nhất trong đoàn thể được tập thể các sư suy tôn để quản lý, điều hành Tăng đoàn. Ngoài ra còn một số vị trong hàng Trưởng lão có đạo hạnh và tài năng đứng ra giúp việc.

Tuy nhiên, sau này trong quá trình du nhập và phát triển đến các quốc gia, Phật giáo đã theo tinh thần Khế lý – Khế cơ để có những hình thức tổ chức, sinh hoạt tăng đoàn cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như truyền thống, văn hoá của mỗi nơi.

Hệ phái, tông phái Phật giáo

Hệ phái Phật giáo

Trong 49 năm thuyết pháp, Đức Phật đã tuỳ theo căn cơ, đối tượng người nghe; tuỳ vào từng vấn đề; tuỳ vào phạm vi thời gian, không gian, điều kiện, hoàn cảnh… mà thuyết giảng. Sau khi Phật nhập Niết bàn, các vị Bồ tát, Thánh tăng đã tổ chức 4 lần kết tập kinh điển để lưu truyền giáo lý của Phật về sau cho các hàng đệ tử có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu, nghiên cứu và thực hành.

– Kết tập kinh điển thứ nhất được tổ chức tại thành Vương Xá sau khi Phật nhập diệt 7 ngày (có sách nói là 3 tháng) tập trung vào việc các Đại đệ tử của Phật tổng hợp và tụng lại các phần Kinh – Luật – Luận, tuy nhiên kết tập kinh điển lần này chỉ là sự tổng hợp và truyền tụng lại cho nhau qua lời nói, chưa có điều kiện để lưu lại trên văn tự.

– Kết tập kinh điển thứ hai được tổ chức tại thành Tỳ Xá Ly sau khi Phật nhập diệt hơn 100 năm để luận giải kinh điển, thực hành giới luật và tranh luận về 10 điều luật mới một bộ phận Tỳ kheo trẻ đưa ra.

– Kết tập kinh điển lần thứ ba được tổ chức tại Thành Hoa Thị sau khi Phật nhập diệt 236 năm và cho đến lúc này cả 3 tạng Kinh – Luật – Luận mới chính thức được ghi chép bằng văn tự Pa li vào các lá bối.

– Kết tập kinh điển lần thứ tư được tổ chức tại thành Ca Thấp Di La sau khi Phật nhập diệt khoảng 600 năm. 3 tạng Kinh – Luật – Luận thời kỳ này đã được khắc bằng chữ Phạn vào các lá đồng dát mỏng rồi được lưu giữ tại một ngôi tháp lớn ở nước Kế Tân.

Sự phân chia hệ phái trong Phật giáo xuất hiện từ lần kết tập kinh điển thứ 2. Trong 10 điều luật mới một bộ phận tỳ kheo trẻ đưa ra và cho là hợp chính pháp, đó là: giáo diêm tịnh (được đem muối đựng trong sừng để bỏ vào các món ăn khi không đủ muối); lưỡng chỉ sao thực tịnh (bóng nắng quá ngọ 2 ngón tay vẫn được ăn); tụ lạc gian tịnh (trước ngọ ăn rồi nhưng đến làng khác vẫn được phép ăn); trụ xứ tịnh (ở đâu thì làm lễ Bá tát ngay ở đấy); tuỳ ý tịnh (quyết nghị đã được Đại hội dù ít dù nhiều cho thông qua đều có giá trị thi hành); cửu trú tịnh (noi theo điều lệ, tập quán); sinh hoà hợp tịnh (được uống sữa pha nước sau giờ ngọ); thuỷ tịnh (rượu mới lên men được pha với nước uống trị bệnh); bất ích lũ Ni sư đàn tịnh (được dùng tọa cụ không viền, kích thước lớn hơn mẫu định); thụ súc kim ngân tiến định (được nhận tiền vàng bạc cúng dàng). Các vị tỳ kheo lớn tuổi không chấp nhận và cho đó là 10 điều phi pháp. Các vị tỳ kheo trẻ không chịu, tách ra thành lập một đoàn thể riêng với chủ trương hành đạo theo tinh thần “Khế lý – khế cơ”, phù hợp với căn cơ, hoàn cảnh từng thời kỳ, từng vùng, miền của chúng sinh. Vì các vị chiếm số đông nên gọi là phái Đại chúng bộ. Các vị cao tăng với chủ trương giữ y giới luật như ngày Đức Phật còn tại thế, đa số là những người đạo cao, đức trọng nên gọi là phái Thượng toạ bộ.

Phái Thượng toạ bộ truyền sang phía Nam qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia nên gọi là hệ phái Phật giáo “Nam truyền” hay “Nam tông”. Phái Thượng toạ bộ chủ trương tôn trọng lối truyền thừa và chủ trương tự độ, tự giác.

Phái Đại chúng truyền sang Trung Quốc rồi truyền vào Việt Nam và Triều Tiên, Nhật Bản … được gọi là hệ phái Phật giáo “Bắc truyền” hay “Bắc tông”. Phái này chủ trương linh động, khoan dung trong giới luật, không cố chấp vào từng chữ trong kinh để rút ra những bài học về triết lý thực hành với tinh thần nhập thế, phổ độ chúng sinh, làm cho chúng sinh cùng giác ngộ như mình, có nghĩa là: Tự độ, độ tha; Tự giác, giác tha.

Tông phái Phật giáo

Cùng với sự phân chia hệ phái của Phật giáo và với cách tiếp cận, nhìn nhận khác nhau về giáo lý Phật giáo, với tinh thần khế lý – khế cơ, từ hai phái lớn của Phật giáo lại được phân thành nhiều tông phái khác nhau. Có thể nói, sự hình thành các tông phái không phải là sự phân liệt, tranh chấp trong Phật giáo về quyền lợi, địa vị của Tăng chúng, cũng không phải là sự phủ định lẫn nhau mà đây chính là sự phát triển làm cho Phật giáo trở nên vững chắc.

Trước đây, Phật giáo có nhiều tông phái, sau này phần nhiều các tông phái có cùng khuynh hướng sát nhập lại với nhau, còn lại 10 tông phái:

1. Câu Xá tông

2. Thành Thật tông

3. Tam Luận tông

4. Pháp Tướng tông

5. Thiên Thai tông

6. Hoa Nghiêm tông

7. Luật tông

8. Thiền tông

9. Tịnh độ tông

10. Mật tông

Chín tông phái (từ 1 đến 9) thuộc loại bộ Hiển giáo. Trong Hiển giáo lại được chia ra Nam tông (1,2) và Bắc tông (từ 3 đến 9). Hiển giáo là thứ giáo lý có thể dùng ngôn ngữ để phát biểu, diễn đạt được. Hiển giáo là do Báo thân và Ứng thân Phật thuyết pháp.

Đối với Mật tông thuộc loại bộ Mật giáo, là thứ giáo lý không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Mật giáo là do Pháp thân Phật thuyết pháp, do đó giáo phái này còn được gọi là Chân Ngôn hay Chân Ngôn tông.

Quá trình truyền bá đạo Phật vào Việt Nam

Theo sử sách Phật giáo Việt Nam còn ghi lại, đạo Phật du nhập vào Việt Nam cả 2 hệ phái: Phật giáo Nam tông (từ phía Nam truyền xuống) và Phật giáo Bắc tông (từ phía Bắc truyền sang) qua 2 con đường:

– Đường bộ: năm 198 Phật giáo chính thức được truyền vào Việt Nam qua đường bộ từ Trung Quốc xuống với tên tuổi của các danh Tăng nổi tiếng như: Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà La…

– Đường thuỷ: đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ 2 hướng:

+ Thế kỷ XIII, đạo Phật được truyền từ Srilanca vào “Thuỷ Chân Lạp”, nay là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

+ Khoảng giữa thế kỷ XVI, vào thời nhà Thanh ở Trung Quốc, khi đời sống xã hội bất ổn, một số thiền sư thuộc Thiền phái Lâm Tế đã đi theo các tàu buôn sang lánh nạn ở Việt Nam và địa phương nơi tiếp nhận phái thiền này đầu tiên là khu vực tỉnh Bình Định ngày nay.

Có một số nhà nghiên cứu cho rằng có dấu hiệu đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ III (trước công nguyên) tại khu vực Đồ Sơn (thành phố Hải Phòng) do một số Tăng sĩ Ấn Độ đi cùng các thương nhân đến buôn bán ở Việt Nam. Như vậy, có thể nói dù đạo Phật truyền vào Việt Nam thời gian nào thì cũng phải khẳng định đạo Phật là một tôn giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm so với các tôn giáo khác và có sự gắn bó, hoà đồng với truyền thống, văn hoá, bản sắc của dân tộc Việt, được người Việt chấp nhận để có thể tồn tại và phát triển đến ngày nay.
Phật giáo khi truyền vào Việt Nam lúc đầu phát triển theo đơn vị gia cư, mỗi cơ sở Phật giáo như là một gia đình, gọi là “Trụ xứ tòng lâm”, từ đó lại phát triển ra nhiều chùa theo một sư tổ, thành một dòng họ và được gọi thành tên khác nhau ở mỗi miền: ở miền Bắc gọi là “Sơn môn”, ở miền Trung gọi là “Môn phái” và miền Nam gọi là “Môn phong”.

Đóng góp của Phật Giáo Việt Nam với đất nước qua các thời kỳ

Trải qua các triều đại phong kiến, thời nhà Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần và qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Phật giáo Việt Nam đều có những đóng góp to lớn trong công cuộc hộ quốc, an dân. Công lao của Phật giáo Việt Nam đã được các triều đại, nhà nước và lịch sử Việt Nam ghi nhận. Thời nhà Đinh có Thiền sư Ngô Chân Lưu (933 – 1011) được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm Khuông Việt Đại sư và phong chức Tăng thống đứng đầu Phật giáo cả nước vì những đóng góp quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Thời nhà Lý có Thiền sư Vạn Hạnh được vua Lý Công Uẩn phong làm Quốc sư vì đã có nhiều cống hiến để xây dựng nên sự thịnh vượng của vương triều Lý; ngoài ra còn có các vị Thiền sư: Đa Bảo, Sùng Phạm, Không Lộ, Mãn Giác, Viên Thông … là những danh tăng đã hết lòng phù trợ triều đình để xây dựng đất nước phát triển rực rỡ trong một thời gian dài… Thời nhà Trần, đạo Phật tuy không trực tiếp tham gia vào các công việc triều chính như thời kỳ trước nhưng lại có đóng góp rất to lớn về các mặt tư tưởng, văn hoá, xã hội. Các Thiền sư, Hoàng đế thời Trần đã lập nên một hệ tư tưởng cho Phật giáo Việt Nam, đó là Thiền phái Trúc Lâm và tiêu biểu là Đức vua Trần Nhân Tông sau khi rời bỏ ngai vàng đã khai sáng ra phái thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc ta, nhiều Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử Phật giáo Việt Nam đã tham gia đoàn quân cứu nước và nhiều vị đã anh dũng hy sinh thân mình cho Tổ quốc. Nhiều ngôi chùa Phật giáo Việt Nam đã trở thành cơ sở cách mạng, nuôi giấu cán bộ, dự trữ lương thảo, quân nhu … phục vụ quân đội trong suốt những năm tháng chiến tranh.

Đánh giá về công lao của Phật giáo đối với dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã phát biểu trong buổi tiếp các đại biểu của Hội nghị Thống nhất Phật giáo Việt Nam: “Trong quá khứ, Phật giáo Việt Nam đã gắn chặt với dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Lịch sử đã xác nhận Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo mà từ bản chất, bản sắc từ trong thực tiễn hoạt động của mình đã biểu hiện truyền thống yêu nước, gắn bó chặt chẽ với dân tộc, với Tổ quốc”.

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

* Lịch sử hình thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Từ khi du nhập vào Việt Nam, đạo Phật tồn tại và phát triển theo truyền thống sơn môn. Các sơn môn sinh hoạt độc lập, ít có sự liên hệ và chịu sự chi phối của các sơn môn khác.
Khi thực dân Pháp đem quân xâm lược nước ta, cũng là lúc Pháp mang theo văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo phương Tây truyền bá vào Việt Nam, mặt khác ra sức kỳ thị, chèn ép Phật giáo với mưu đồ xoá dần tín ngưỡng, tôn giáo, văn hoá truyền thống của người dân Việt. Trong nước, Phật giáo không còn được sự ủng hộ như trước đây … Bản thân Phật giáo lúc này nặng về tín ngưỡng hơn tư duy. Từ bối cảnh đó, một số Tăng Ni, Cư sĩ có tâm huyết và tinh thần đạo pháp, dân tộc đã quyết tâm chỉnh đốn lại bằng cách mở trường Phật học, dịch kinh điển sang chữ quốc ngữ cho Tăng Ni, Phật tử dễ học, dễ hiểu, xây dựng các cơ sở xã hội, ra các tờ tạp chí với mục đích giúp đỡ nhau cùng học Phật và hoằng pháp, nêu cao tinh thần dân tộc. Chương trình học văn hoá cũng được đưa vào giáo dục cho Tăng Ni.

Phong trào “Chấn hưng Phật giáo” ở cả 3 miền Trung – Nam – Bắc trong những thập niên 30, 40 của thế kỷ XX đã thổi bùng lên truyền thống yêu nước và ý thức trách nhiệm đối với Dân tộc và Đạo pháp của Tăng Ni, Phật tử, nhất là sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Cùng với các tổ chức cứu quốc khác, Phật giáo cứu quốc ra đời…

Phật giáo Việt Nam đã ý thức được rằng muốn có sức mạnh thật sự phải cùng nhau đoàn kết, tập hợp nhau trong một tổ chức để chấn hưng đạo pháp, bảo vệ văn hoá truyền thống, góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc. Đó là lý do để Phật giáo tiến hành các cuộc vận động thống nhất Phật giáo trong cả nước:Cuộc vận động thống nhất Phật giáo lần thứ nhất (năm 1951) với sự tham dự của 6 đoàn thể Phật giáo ở 3 miền; Cuộc vận động thành lập Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam ở các tỉnh, thành phố phía Bắc (năm 1957, 1958); Cuộc vận động thống nhất Phật giáo năm 1964 tại miền Nam để thành lập nên “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất”. Tuy nhiên, sự thống nhất của 3 cuộc vận động này chưa được trọn vẹn vì đây không phải là sự thống nhất của Phật giáo trên toàn quốc mà chỉ là sự thống nhất của một số tổ chức Phật giáo hay của một miền.

Cuộc vận động thống nhất Phật giáo cả nước, thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Đầu năm 1980, thể theo nguyện vọng của toàn thể Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử, các vị Giáo phẩm đại diện cho các tổ chức hệ phái lớn của Phật giáo họp tại thành phố Hồ Chí Minh và quyết định thành lập “Ban Vận động thống nhất Phật giáo” để xúc tiến cuộc vận động trong phạm vi cả nước, bao gồm đại diện của 9 tổ chức, hệ phái:

– Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam (ở miền Bắc);

– Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (Ấn Quang);

– Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh;

– Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam;

– Giáo hội Tăng già nguyên thuỷ Việt Nam;

– Hội đoàn kết sư sãi yêu nước Tây Nam bộ (Phật giáo Khmer);

– Giáo phái Khất sĩ Việt Nam;

– Giáo hội Thiên Thai giáo quán tông;

– Hội Phật học Nam Việt.

Tháng 11/1981 Đại hội thống nhất Phật giáo đã được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội với sự tham dự của 168 vị Giáo phẩm, Tăng Ni, Cư sĩ đại diện cho 9 tổ chức, hệ phái nói trên để thành lập nên một tổ chức chung của Phật giáo cả nước lấy tên là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam). Tại Lời nói đầu của Hiến chương, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định: Sự thống nhất Phật giáo Việt Nam đặt trên nguyên tắc: “Thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức, tuy nhiên, các truyền thống hệ phái và phương tiện tu hành đúng chính pháp vẫn được duy trìvà xác định Phương châm hoạt động của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là: Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là tổ chức Giáo hội duy nhất đại diện cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nướcHiến chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định: “Mục đích của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là điều hoà, hợp nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam cả nước để hộ trì hoằng dương Phật pháp và tham gia xây dựng bảo vệ Tổ quốc, phục vụ dân tộc, góp phần xây dựng hoà bình, an lạc cho thế giới”.

* Các kỳ Đại hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng đoàn kết, thống nhất Phật giáo Việt Nam của đông đảo Tăng Ni, Phật tử Phật giáo Việt Nam để thực hiện sự nghiệp truyền bá và duy trì giáo lý Phật giáo, đóng góp công sức cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Đến nay, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã trải qua 6 kỳ Đại hội.

– Đại hội lần thứ I (nhiệm kỳ 1981 – 1987) của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chính là Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 11/1981. Đây được coi là thời kỳ xây dựng nền móng cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Về hệ thống tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có 2 cấp: cấp trung ương và cấp tỉnh dưới sự lãnh đạo của 2 Hội đồng: Hội đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự; giúp việc cho trung ương Giáo hội có 2 Văn phòng: Văn phòng I (đặt tại Hà Nội) và Văn phòng II (đặt tại thành phố Hồ Chí Minh) và 6 ban hoạt động (Ban Tăng sự; Ban Giáo dục Tăng Ni; Ban Hướng dẫn nam nữ Cư sĩ Phật tử; Ban Hoằng pháp; Ban Nghi lễ; Ban Văn hóa), thành lập được 28 Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh.

– Đại hội lần thứ II (nhiệm kỳ 1987 – 1992) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 10/1987. Đây là giai đoạn phát triển các mặt hoạt động theo chương trình nội dung 6 điểm của Giáo hội trong thời kỳ đổi mới của xã hội và đất nước, số lượng Ban Trị sự được thành lập lên tới 33 đơn vị và bổ sung thêm 2 ban ngành hoạt động (Ban Kinh tế nhà chùa và Từ thiện xã hội; Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam) thành 8 ban chuyên môn.

– Đại hội lần thứ III (nhiệm kỳ 1992 – 1997) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 11/1992. Đây là giai đoạn tiếp tục phát triển và hoàn chỉnh các mặt hoạt động của Giáo hội. Giáo hội đã có 10 ban, viện hoạt động và được duy trì cho tới ngày nay (thành lập thêm Ban Phật giáo Quốc tế và tách Ban Kinh tế nhà chùa và Từ thiện xã hội thành 2 ban: Ban Kinh tế Tài chính và Ban Từ thiện xã hội) và 41 Ban Trị sự Phật giáo.

– Đại hội lần thứ IV (nhiệm kỳ 1997 – 2002) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 11/1997. Giáo hội đã thành lập được 45 đơn vị tỉnh, thành hội Phật giáo trong cả nước với 10 ban, viện hoạt động.

– Đại hội lần thứ V (nhiệm kỳ 2002 – 2007) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 12/2002. Đây là nhiệm kỳ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam củng cố các ban, viện. Kết thúc nhiệm kỳ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã có 54 Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo.

– Đại hội lần thứ VI (nhiệm kỳ 2007 – 2012) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 12/2007. Đại hội được coi là một bước thay đổi lớn trong quá trình phát triển của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, nổi bật là cải tiến về vấn đề nhân sự tham gia vào bộ máy lãnh đạo của Phật giáo ở các cấp, đặc biệt quan tâm đến sự kế thừa trong Giáo hội, ưu tiên trọng dụng đội ngũ Tăng Ni trẻ có trình độ và uy tín, năng lực. Đại hội cũng đã thông qua bản Hiến chương sửa đổi có quy định về Đạo kỳ, Đạo ca và hệ thống tổ chức được nâng lên 3 cấp thay vì 2 cấp như trước đây: cấp trung ương – cấp tỉnh – cấp huyện; tăng số lượng thành viên tham gia Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự và Ban Trị sự Phật giáo.

Trên cơ sở hệ thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ của Đạo Phật và các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động tôn giáo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã trải qua 6 kỳ Đại hội với 4 lần sửa đổi Hiến chương (tại Đại hội lần thứ II, III, IV và VI) và đã có những điều chỉnh kịp thời trong từng giai đoạn nhất định cho phù hợp với yêu cầu và thực tế khách quan để củng cố tổ chức và đáp ứng được yêu cầu đề ra.

* Về số lượng: Tính đến tháng 6/2010, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có 56/63 Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo cấp tỉnh, 01/63 Ban Đại diện Phật giáo cấp thị xã (chưa có tổ chức bộ máy Phật giáo cấp tỉnh); 14.775 cơ sở thờ tự, 44.498 Tăng Ni (trong đó Bắc tông có 32.165 vị, Nam tông có 9.379 vị, Khất sĩ có 2.954 vị) và trên 10.000.000 tín đồ được phân bố trên phạm vi toàn quốc.

* Thành phần tham gia Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Thành phần của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam gồm các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam, Tăng Ni và Cư sĩ thuộc các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam đã hợp nhất, hình thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và chấp nhận Hiến chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Thành phần Tăng, Ni trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam gồm 2 thành phần: giáo phẩm và đại chúng.

– Thành phần giáo phẩm

+ Giáo phẩm Tăng: Hoà thượng, Thượng tọa

+ Giáo phẩm Ni: Ni trưởng, Ni sư

– Thành phần đại chúng: gồm những Tăng, Ni đã thụ giới Tỳ kheo (Đại đức), Tỳ kheo Ni (Sư cô), Thức xoa Ma na, Sa di, Sa di Ni.

* Cơ cấu tổ chức

– Cấp Trung ương

+ Hội đồng Chứng minh: gồm các vị Hoà thượng tiêu biểu của các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam có 70 tuổi đời, 50 tuổi đạo trở lên, không giới hạn số lượng và được Đại hội Phật giáo toàn quốc suy tôn. Hội đồng Chứng minh suy cử một Ban thường trực do một vị Hoà thượng Pháp chủ đứng đầu. Ban thường trực Hội đồng Chứng minh có nhiệm vụ: Chứng minh các Hội nghị Trung ương và Đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam; Hướng dẫn và giám sát các hoạt động của Giáo hội về mặt đạo pháp và giới luật; Phê chuẩn tấn phong chức vị giáo phẩm Hoà thượng, Thượng toạ, Ni trưởng, Ni sư của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam; Ban hành Thông điệp về Phật đản, Thư chúc tết và tình hình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những tình huống đặc biệt.

+ Hội đồng Trị sự: gồm các vị Hoà thượng, Thượng toạ, Đại đức, Tăng Ni và Cư sĩ của Giáo hội do Ban thường trực Hội đồng Trị sự tiền nhiệm đề cử và Đại hội đại biểu Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam suy cử. Hội đồng Trị sự là cấp điều hành cao nhất của Giáo hội về các mặt hoạt động của Giáo hội giữa hai kỳ Đại hội, ấn định chương trình hoạt động hàng năm của Giáo hội theo đúng Nghị quyết của Đại hội đại biểu Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và đôn đốc, kiểm soát việc thực hiện chương trình đó. Hội đồng Trị sự có nhiệm vụ suy cử một vị Hoà thượng Chủ tịch đứng đầu và suy cử Ban thường trực để Ban này thay mặt Hội đồng Trị sự điều hành hoạt động của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam theo nội quy của mình và có đệ trình để Hội đồng Chứng minh biết.

Bộ máy giúp việc cho hoạt động ở cấp trung ương gồm có 9 ban, 1 viện (Ban Tăng sự, Ban Giáo dục Tăng Ni, Ban Hướng dẫn Phật tử (gồm 2 phân ban: Cư sĩ Phật tử và Gia đình Phật tử), Ban Hoằng pháp, Ban Nghi lễ, Ban Văn hóa, Ban Kinh tế – Tài chính, Ban Từ thiện xã hội, Ban Phật giáo Quốc tế, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (có 1 phân viện đặt tại Hà Nội)) và 4 vị ủy viên kiểm soát, 2 ủy viên pháp chế, 2 văn phòng.

Các ban, viện hoạt động trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban. Chương trình hoạt động phải phù hợp với Nội quy hoạt động của Ban thường trực Hội đồng Trị sự và được Ban thường trực Hội đồng Trị sự thông qua mới được thực hiện. Các ban, viện có thể thành lập các phân ban, phân viện để phụ trách các chuyên ngành hoạt động theo nội quy riêng được Ban thường trực Hội đồng Trị sự chuẩn y. Việc sửa đổi, bổ sung nội quy do từng ban, ngành, viện đề xuất và được Ban thường trực Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam xét duyệt, chấp thuận.
Hai văn phòng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam: có trách nhiệm giúp việc cho Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự và phối hợp với các ban, viện triển khai công tác Phật sự trong lĩnh vực hành chính, văn phòng.
Nhiệm kỳ hoạt động của Ban thường trực Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự và các ban, viện, ủy viên, văn phòng là 5 năm, tương ứng với nhiệm kỳ Đại hội.

– Cấp tỉnh: Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo có trách nhiệm điều hành hoạt động của Phật giáo địa phương theo đúng Hiến chương của Giáo hội và phù hợp với pháp luật Việt Nam, đồng thời triển khai các công việc Phật sự theo sự chỉ đạo của Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

– Cấp huyện: Ban Đại diện Phật giáo là cơ quan giúp việc cho Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo cấp tỉnh, thực hiện các công việc Phật sự ở địa phương mình theo chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ theo nội quy do Giáo hội ban hành.
Những phường xã, thị trấn có nhiều cơ sở thờ tự và Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử thì Ban Đại diện Phật giáo giới thiệu để Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh bổ nhiệm một đại diện phường, xã, thị trấn hay liên phường, xã, thị trấn tại địa phương làm đầu mối để giúp Ban Đại diện Phật giáo cấp huyện liên hệ với các cơ sở của Giáo hội về mặt sinh hoạt tín ngưỡng.

* Một số hoạt động cơ bản của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

– Hoạt động Tăng sự: Hàng năm, Ban Tăng sự đều triển khai các công tác: Thống kê Tăng Ni, Tự Viện để bổ sung vào danh bộ của Giáo hội; cấp Giấy chứng nhận cho Tăng Ni để công nhận là nhà sư thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam; tổ chức An cư Kiết hạ để chấn chỉnh quy củ sinh hoạt và nề nếp của Tăng Ni, đồng thời giúp cho Tăng Ni có thời gian và điều kiện học tập, trau dồi đạo hạnh, trí tuệ; tổ chức các Giới đàn thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Thức xoa Ma na, Sa di, Sa di Ni và thụ Thập thiện và Bồ Tát giới cho hàng Phật tử tại gia, đây là sự ghi nhận về sự tăng trưởng đạo pháp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đối với hàng đệ tử xuất gia và tại gia, đồng thời cũng hướng cho họ tu học theo đúng chính pháp; bổ nhiệm sư trụ trì tại các cơ sở thờ tự của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam để quản lý và phục vụ tín ngưỡng Phật giáo cho nhân dân; bồi dưỡng hành chính và trụ trì cho Tăng Ni để trang bị kiến thức cho các vị thực hiện mọi hoạt động tuân thủ Hiến chương của Giáo hội và pháp luật của Nhà nước.

Công tác Tăng sự của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc ổn định sinh hoạt Phật giáo ở trung ương cũng như địa phương, giúp cho Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quản lý tổng thể và tương đối toàn diện về sự phát triển (trên cả 2 mặt: số lượng và chất lượng) của Giáo hội để đề ra những chủ trương, phương hướng hoạt động trong từng giai đoạn cụ thể, phù hợp với phương châm Giáo hội đã đề ra.

– Hoạt động giáo dục Tăng Ni: Ngay từ sau khi thành lập, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã mở trường Cao cấp Phật học Việt Nam (đến ngày 23/6/1997 đổi tên thành “Học viện Phật giáo Việt Nam”) cơ sở 1, đặt tại Hà Nội và khai giảng khoá I vào tháng 12/1981; cơ sở 2 đặt tại thành phố Hồ Chí Minh và khai giảng khoá I vào tháng 10/1984. Đến nay, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã có 4 Học viện Phật giáo, 8 lớp Cao đẳng Phật giáo (tháng 8/2009, Trường Trung cấp Phật học thành phố Hải Phòng được Chính phủ chấp thuận cho nâng cấp lên thành Trường Trung – Cao đẳng Phật học) và 32 trường Trung cấp, hàng trăm lớp sơ cấp Phật học và thường xuyên tổ chức các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho Tăng Ni, Cư sĩ thuộc thành viên Ban Giáo dục Tăng Ni, Ban Giảng huấn các trường tham dự… Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã đào tạo được hàng ngàn Tăng Ni có trình độ Cử nhân Phật học và Cao đẳng Phật học, hàng vạn Tăng Ni có trình độ Trung cấp Phật học. Ngoài ra, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam còn cử hàng trăm Tăng Ni đi du học làm Nghiên cứu sinh, Thạc sĩ Phật học và rất nhiều Tăng Ni đi học Phật học cũng như thế học, ngôn ngữ ở nước ngoài. Hiện nay đã có trên 200 Tăng Ni về nước tham gia các ban, viện trung ương, Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo địa phương và các cơ sở giáo dục Phật giáo…

– Hoạt động hoằng pháp: Công tác hoằng pháp được đặt ra ngay từ khi thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Hàng năm Ban Hoằng pháp trung ương tổ chức các khoá đào tạo, bồi dưỡng, hội thảo nghiệp vụ cho Giảng sư đoàn trung ương cũng như đoàn Giảng sư các tỉnh; tổ chức các Hội thi giáo lý cho Cư sĩ, Phật tử; thuyết giảng tại các đạo tràng, hướng dẫn Phật tử tu tập Bát quan trai…
Trong những năm qua công tác hoằng pháp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã hướng dẫn được đông đảo Phật tử tu học theo đúng chính pháp của Đức Phật, góp phần nâng cao nhận thức giáo lý Phật giáo cho Phật tử, bài trừ tệ nạn lợi dụng tín ngưỡng Phật giáo để hành nghề mê tín dị đoan và giữ gìn sự đoàn kết, ổn định trong một bộ phận xã hội.

– Hoạt động hướng dẫn Phật tử: Công tác hướng dẫn Phật tử được chia thành 2 phần chính: hướng dẫn Cư sĩ, Phật tử và hướng dẫn Gia đình Phật tử. Công tác hướng dẫn Cư sĩ, Phật tử nổi bật nhất là thông qua hướng dẫn hoạt động của các đạo tràng như: Pháp Hoa, Dược sư, Tịnh độ, tu Thiền… cho các giới nam, nữ Phật tử tại các cơ sở tự viện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong toàn quốc. Công tác hướng dẫn Gia đình Phật tử sinh hoạt trong các nhà chùa cũng được quan tâm.

– Hoạt động văn hoá: Đến tháng 6/2010, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã có 6 ấn phẩm Phật giáo được phép xuất bản, đó là: Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Tạp chí Văn hoá Phật giáo, Tạp chí Khuông Việt, Tạp chí Nguyên Thuỷ, Tuần báo Giác Ngộ và Nguyệt san Giác Ngộ. Bên cạnh đó, hàng năm Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ở trung ương và địa phương đã xin xuất bản hàng trăm đầu kinh sách và băng, đĩa để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, đọc tụng, học tập, nâng cao sự hiểu biết về văn hoá Phật giáo gắn với văn hoá dân tộc cho Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước.

– Hoạt động kinh tế tài chính: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam với chủ trương tự chủ về kinh phí hoạt động và góp phần xây dựng đất nước, do đó kinh phí được Giáo hội huy động tập trung từ một số nguồn cơ bản: vận động các cơ sở thờ tự tạo nguồn kinh tế nhà chùa; thành lập Công ty kinh doanh các ấn phẩm Phật giáo và tổ chức các tour du lịch Phật giáo trong và ngoài nước; vận động Tăng Ni, Tự viện đóng góp… và thực tế đã chứng minh, trong gần 3 thập kỷ qua Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã tồn tại, phát triển và có nhiều đóng góp cho đất nước trong các công tác từ thiện, nhân đạo … bằng chính nội lực của mình.

– Hoạt động từ thiện xã hội: Công tác từ thiện xã hội là những hoạt động Phật sự mang tinh thần nhân đạo, thể hiện sự nhập thế của Phật giáo Việt Nam, là một trong những công tác trọng tâm của Giáo hội. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hiện có 126 Tuệ Tĩnh đường và phòng phát thuốc từ thiện; hàng trăm phòng thuốc chẩn trị y học dân tộc; trên 1000 lớp học tình thương; nhiều cơ sở nuôi dạy trẻ mẫu giáo bán trú, trẻ mồ côi, khuyết tật; nhiều trường dạy nghề miễn phí, hàng chục cơ sở chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS… và rất nhiều các hoạt động khác. Chỉ riêng nhiệm kỳ V (2002 – 2007), Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã tổ chức cứu trợ đồng bào bị thiên tai, dịch bệnh và các hoạt động nhân đạo từ thiện khác với tổng số kinh phí trên 400 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam còn tham gia các hoạt động ủng hộ, cứu trợ nhân dân thế giới bị ảnh hưởng bởi các cuộc thiên tai, bão lũ …

– Hoạt động Phật giáo quốc tế: Trong xu thế toàn cầu hoá, với tinh thần hoà bình, hữu nghị, hợp tác với Phật giáo các nước trên thế giới, hoạt động Phật giáo quốc tế của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã ngày càng phát triển và đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam luôn tích cực tham gia các tổ chức và hoạt động Phật giáo tiến bộ trên thế giới, như:

+ Tham gia là thành viên của tổ chức ABCP (Asian Buddhist Confrence for Peace – Tổ chức Phật giáo Châu Á vì hoà bình). Mục tiêu của ABCP là đấu tranh vì hoà bình, hạnh phúc cho con người, chống chiến tranh.

+ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tham gia các kỳ Đại lễ Vesak (ngày tam hợp đức Phật: ngày Phật sinh, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn). Đại Hội đồng Liên hợp quốc tại phiên họp thứ 54, mục 174 của chương trình nghị sự (ngày 15 tháng 12 năm 1999) đã chính thức công nhận Đại lễ Vesak là một lễ hội văn hóa, tôn giáo quốc tế của Liên hợp quốc, tôn vinh giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết hữu nghị của Đức Phật. Năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã đăng cai và tổ chức thành công Đại lễ Vesak Liên Hợp quốc với sự tham gia của Phật giáo 74 quốc gia và vùng lãnh thổ.

+ Tham gia tổ chức Ni giới thế giới: Đây là tổ chức hoạt động nhằm khẳng định quyền bình đẳng nam nữ, tạo cơ hội cho nữ giới trong các hệ phái Phật giáo tu học, hoạt động vì mục tiêu hòa bình và công bằng xã hội. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã đăng cai tổ chức Hội nghị Ni giới thế giới lần thứ 11 tại Việt Nam (vào tháng 12/2009) đạt kết quả tốt.

+ Tham gia là thành viên của Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo thế giới (tên đầy đủ là Hội Phật giáo Thế giới truyền bá chánh pháp).
Ngoài ra, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có quan hệ ngoại giao, thân hữu với rất nhiều nước có Phật giáo như: Srilanca, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào, Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Singapore, Indonesia… Tăng Ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam còn có các quan hệ cá nhân hoặc trong sơn môn, pháp phái với Tăng Ni, Phật tử người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài, tập trung ở một số nước như: Mỹ, Pháp, Canada, Ba Lan, Ucraina, …

Hiện nay đã có trên 300 ngôi chùa Việt Nam ở gần 30 nước trên thế giới.

– Hoạt động nghiên cứu Phật học: Tập trung vào một số lĩnh vực: nghiên cứu, phiên dịch và xuất bản kinh sách, Tạp chí Phật học; tổ chức và tham dự các cuộc hội thảo, hội nghị, các hoạt động Phật giáo trong nước và quốc tế (ví dụ: giới thiệu về lịch sử Phật giáo và Phật giáo Việt Nam; phối hợp với Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo về các vị danh tăng thuộc Phật giáo Việt Nam có công với đạo Pháp và dân tộc …); tổ chức các thư viện, phòng đọc sách phục vụ nhu cầu nghiên cứu và học tập của Tăng Ni, Phật tử;…
Hoạt động nghiên cứu Phật học của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã góp phần vào làm phong phú kho tàng tri thức của Phật giáo Việt Nam và có những đóng góp nhất định vào sự tìm hiểu mối tương quan giữa văn hoá Phật giáo với văn hoá dân tộc Việt Nam.

– Hoạt động nghi lễ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được hợp thành bởi 9 tổ chức, hệ phái Phật giáo khác nhau và mỗi tổ chức, hệ phái lại có những đặc thù và truyền thống riêng, do đó với tinh thần tôn trọng sự biệt truyền của từng hệ phái Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam khó có thể đưa ra một quy định nghi lễ thống nhất trong toàn Giáo hội, tuy nhiên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã có hướng dẫn các địa phương, các hệ phái tổ chức những ngày lễ trọng của Phật giáo (như: Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan Báo hiếu, Lễ Tưởng niệm …) trên tinh thần chung là bảo tồn nét văn hoá truyền thống của Phật giáo Việt Nam, đó là đoàn kết, trang nghiêm, đảm bảo nếp sống văn hoá mới, giữ gìn an ninh trật tự và không trái với quy định của luật pháp nhà nước. Thực tế những năm qua cho thấy, các nghi lễ trong lễ hội Phật giáo cũng như các hoạt động khác của Giáo hội đã góp phần làm phong phú thêm cuộc sống tinh thần của một bộ phận đồng bào theo đạo, đồng thời có những đóng góp vào truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam.

Ngoài các hoạt động nêu trên, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam còn có rất nhiều hoạt động khác để “dưỡng đạo”, “hành đạo” và “quản đạo”, không ngừng củng cố tổ chức Phật giáo từ trung ương đến các địa phương; tổ chức các kỳ Hội nghị, Đại hội; phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, thuyên chuyển … chức sắc tôn giáo; xây, sửa cơ sở thờ tự;…

Gần hai ngàn năm có mặt ở Việt Nam, đạo Phật đã trải qua nhiều thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc, song thời nào Phật giáo cũng lấy đức Từ bi để giáo hoá chúng sinh, lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Phật giáo Việt Nam đã xây dựng cho mình truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc.

Tiếp nối truyền thống đó của Phật giáo Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã và đang viết tiếp vào trang sử vàng của Phật giáo Việt Nam, tiếp tục khẳng định chỗ đứng của Phật giáo trong lòng dân tộc. Với bản chất từ bi, yêu tự do, yêu hoà bình, tôn trọng sự sống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay với phương châm hoạt động “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” luôn tích cực trong các phong trào tương thân tương ái, giúp đỡ cộng đồng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, xây dựng xã hội bình đẳng và văn minh, xứng đáng là một tôn giáo “Hộ quốc  An dân”.

Minh Nga
Phó Vụ trưởng Vụ Phật giáo
Ban Tôn giáo Chính phủ

Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên, trong điều kiện xã hội phân chia theo chế độ đẳng cấp bất bình đẳng. Đạo Phật ra đời là sự kế thừa, tiếp nối các trào lưu tôn giáo, triết học nổi tiếng của Ấn Độ cổ đại và được coi là một trong những học thuyết xã hội chống lại sự bất công trong xã hội đương thời.

Đôi nét về đạo Phật

Người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa (Shidartha) sinh năm 624 trước công nguyên thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh Phạn Vương Đầu Đà Na (Sudhodana) trị vì nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavasu) xứ Trung Ấn Độ lúc đó và hoàng hậu Ma Da (Maya). Dù sống trong cuộc đời vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự đau khổ của nhân sinh, vô thường của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm tìm ra căn nguyên của đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Sau nhiều năm tìm thày học đạo, Thái Tử nhận ra rằng phương pháp tu hành của các vị đó đều không thể giải thoát cho con người hết khổ được. Cuối cùng, Thái tử đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ đề và thề rằng “Nếu Ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”. Sau 49 ngày đêm thiền định, Thái tử đã đạt được Đạo vô thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó là ngày 08 tháng 12 năm Đức Phật 31 tuổi.

Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri thức để xây dựng cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật không công nhận có một đấng tối cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc hay giáng hoạ cho ai mà trong cuộc sống mỗi người đều phải tuân theo luật Nhân – Quả, làm việc thiện thì được hưởng phúc và làm việc ác thì phải chịu báo ứng. Đạo Phật còn thể hiện là một tôn giáo tiến bộ khi không có thái độ phân biệt đẳng cấp. Đức Phật đã từng nói: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ như nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn”. Ngoài ra, đạo Phật cũng thể hiện tinh thần đoàn kết và không phân biệt giữa người tu hành và tín đồ, quan điểm của đạo Phật là “Tứ chúng đồng tu”, đó là Tăng, Ni, Phật tử nam và Phật tử nữ đều cùng được tu và nếu ai có quyết tâm đều có thể thành tựu như Đức Phật.

Khác với một số tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Phật chủ trương không có hệ thống tổ chức thế giới và hệ thống giáo quyền. Điều này xuất phát từ lý do Đức Phật hiểu rõ sự ham muốn quyền lực của con người, do đó Đức Phật chủ trương không giao giáo quyền quản lý cho ai mà chỉ hướng dẫn đệ tử nương vào giáo lý, giáo luật để duy trì và tồn tại theo hệ thống sơn môn (như dòng họ thế tục ngoài đời).

Một đặc điểm nổi bật của đạo Phật là một tôn giáo hoà bình, hữu nghị, hợp tác. Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật du nhập vào trên 100 nước trên thế giới, ở hầu khắp các châu lục nhưng luôn với trạng thái ôn hoà, chưa bao giờ đi liền với chiến tranh xâm lược hay xảy ra các cuộc thánh chiến. Tính đến năm 2008, đạo Phật có khoảng 350 triệu tín đồ và hàng trăm triệu người có tình cảm, tín ngưỡng và có ảnh hưởng bởi văn hoá, đạo đức Phật giáo.

Về giáo lý, giáo luật, lễ nghi của đạo Phật:

Kinh sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng (Tam tạng kinh điển):

– Kinh tạng: là những sách ghi chép lời Phật giảng dạy về giáo lý, còn gọi là Khế kinh, có nghĩa như là một chân lý.

– Luật tạng: là sách ghi chép những giới luật của Phật chế định dành cho 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia phải tuân theo trong quá trình sinh hoạt và tu học, đặc biệt là các quy định đối với hàng đệ tử xuất gia.

– Luận tạng: là sách giảng giải ý nghĩa về kinh, luật.

Về số lượng, kinh sách của Phật giáo được coi là một kho tàng vĩ đại. Riêng Đại tạng kinh có gần 10.000 pho sách, ngoài ra còn rất nhiều những trước tác, bình luận, giải thích giáo lý và rất nhiều các lĩnh vực khác, như: Văn học, triết học, nghệ thuật, luân lý học được truyền bá khắp thế giới và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nguyên bản thì chép bằng chữ Pali và chữ Phạn.

Giáo lý:

Giáo lý của đạo Phật có rất nhiều nhưng đều xuất phát từ thực tế cuộc sống, không trừu tượng, siêu hình, giáo điều hay khiên cưỡng, không ép buộc mà hoàn toàn chỉ mang tính định hướng để cho mọi người tuỳ điều kiện, hoàn cảnh, nhận thức áp dụng linh hoạt để dù tu theo cách nào trong 84.000 pháp môn tu Đức Phật đã chỉ ra thì cuối cùng cũng đạt đến mục đích sống yên vui, ấm no và hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình và xã hội.

Giáo lý cơ bản của đạo Phật có 2 vấn đề quan trọng, đó là Lý Nhân duyên và Tứ Diệu đế (4 chân lý).

Lý Nhân duyên

Phật giáo quan niệm các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng theo quy luật Thành – Trụ – Hoại – Không (mỗi sự vật đều có quá trình hình thành, phát triển và tồn tại một thời gian, rồi biến chuyển đi đến huỷ hoại và cuối cùng là tan biến, ví như một làn sóng, khi mới nhô lên gọi là “thành”, khi nhô lên cao nhất gọi là “trụ”, khi hạ dần xuống gọi là “hoại”, đến khi tan rã lại trở về “không”) và đều bị chi phối bởi quy luật nhân – duyên, trong đó nhân là năng lực phát sinh, là mầm để tạo nên quả và duyên là sự hỗ trợ, là phương tiện cho nhân phát sinh, nảy nở. Tuỳ vào sự kết hợp giữa nhân và duyên mà tạo thành các sự vật, hiện tượng khác nhau. Có hay không một hiện tượng, sự vật là do sự kết hợp hay tan rã của nhiều nhân, nhiều duyên. Nhân và duyên cũng không phải tự nhiên có mà nó được tạo ra bởi sự vận động của các sự vật, hiện tượng và quá trình hợp – tan của các nhân – duyên có trước để tạo ra nhân – duyên mới, Phật giáo gọi đó là tính “trùng trùng duyên khởi”.

Về con người, Phật giáo cho rằng cũng không nằm ngoài quy luật: Thành – Trụ – Hoại – Không, hay nói cách khác bất cứ ai cũng phải tuân theo quy luật: Sinh – Trụ – Dị – Diệt (đó là chu trình con người được sinh ra, lớn lên, tồn tại, thay đổi theo thời gian và cuối cùng là diệt vong). Khi con người mất đi thì tinh thần cũng theo đó mà tan biến. Phật giáo không công nhận một linh hồn vĩnh cửu, tách rời thân thể để chuyển từ kiếp này sang kiếp khác.

Phật giáo quan niệm con người được sinh ra không phải là sản phẩm của một đấng tối cao nào đó, càng không phải tự nhiên mà có. Sự xuất hiện của một người là do nhiều nhân, nhiều duyên hội hợp và người đó không còn tồn tại khi nhân duyên tan rã. Nhân – duyên ở đây được Phật giáo khái quát thành một chuỗi 12 nhân duyên (thập nhị nhân duyên), là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi: 1) Vô minh; 2) Hành; 3)Thức; 4) Danh sắc; 5) Lục nhập; 6) Xúc; 7) Thụ; 8) Ái; 9) Thủ; 10) Hữu; 11) Sinh; 12) Lão tử. Trong đó, Vô minh là duyên của “Hành”, Hành là duyên của “Thức”, Thức là duyên của “Danh sắc”, Danh sắc là duyên của “Lục nhập”, Lục nhập là duyên của “Xúc”, Xúc là duyên của “Thụ”, Thụ là duyên của “Ái”, Ái là duyên của “Thủ”, Thủ là duyên của “Hữu”, Hữu là duyên của “Sinh”, Sinh là duyên của “Lão tử”. Phật giáo cho rằng 12 nhân duyên có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, cái này là quả của cái trước nhưng lại là nhân, là duyên cho cái sau. Trong chuỗi nhân duyên, Phật giáo chú trọng nhấn mạnh tới yếu tố “vô minh”, hiểu theo nghĩa đen là một màn đêm u tối, không có ánh sáng dẫn đường, không biết lối mà đi; hiểu theo nghĩa bóng đó là sự thiếu hiểu biết của con người về thế giới khách quan, về bản chất chân thực của sự vật hiện tượng dẫn tới nhìn nhận thiên kiến, thiển cận, phiến diện, chấp ngã, đề cao cái “Ta”, từ đó dẫn dắt đến hành động sai trái, tạo nên nghiệp xấu, gây nên “nhân” xấu, sinh ra “quả” xấu, làm cho con người phải chịu đau khổ, mãi quẩn quanh trong vòng sinh tử luân hồi. Do đó, để có thể thụ hưởng yên vui, an lạc trong cuộc đời con người phải học tập, lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp) để xoá bỏ “vô minh”, tạo ra những nhân, duyên tốt để gieo trồng nên quả ngọt.

Phật giáo quan niệm mọi sự vật luôn luôn biến chuyển, đổi thay, mọi thứ ta có, ta nhìn thấy đều chỉ là vô thường. Vô thường là không thường xuyên, mãi mãi ở trong một trạng thái nhất định mà nó sẽ luôn biến đổi, tồn tại hay không tồn tại, có hay không có đó chỉ là vấn đề thời gian. Khi đầy đủ nhân duyên hội hợp thì sự vật hiện hữu, gọi là “có”; khi nhân duyên tan rã thì sự vật biến diệt, lại trở về là “không”. Muôn vật từ nhân duyên mà sinh và cũng do nhân duyên mà diệt. Lý nhân duyên làm cho ta thấy con người là một đấng tạo hoá tự tạo ra đời sống của mình, con người làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc đời con người vui sướng hay phiền não đều do nhân và duyên mà con người tự tạo ra chi phối. Từ cách nhìn nhận đó, Đức Phật khuyên con người sống hướng thiện, thực hiện tâm từ bi, biết yêu thương và chia sẻ, vì hạnh phúc của mọi người và hạnh phúc của mình, sống tự tại an lạc, không cố chấp bám víu vào sự vật, hiện tượng, không bị ảnh hưởng, chi phối bởi sự vô thường của cuộc sống.

Tứ diệu đế

Khi còn là Thái Tử, Đức Phật đã nhận ra cuộc đời đầy rẫy sự đau khổ, do đó Ngài đã quyết chí ra đi tu hành để lý giải vì sao con người ta lại đau khổ và làm sao để thoát khổ. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã nhận rõ căn nguyên nguồn cội của sự khổ đau và phương pháp để diệt trừ nó, Đức Phật đã đem kiến thức của mình truyền bá và hướng dẫn cho người xung quanh thực hành.
Song giai đoạn đầu truyền bá không thành công vì lý lẽ Đức Phật nói ra quá cao siêu mà trình độ của những người nghe đa số còn hạn hẹp nên họ không hiểu, dần dần rời bỏ khỏi những buổi thuyết pháp của Phật. Từ đó Phật đã chuyển đổi phương pháp giảng đạo từ tư duy lý luận sang hướng dẫn thực hành, đó là pháp môn Tứ diệu đế.
Tứ diệu đế đã trở thành giáo lý căn bản, xuyên suốt trong toàn bộ kinh điển Phật giáo. Tứ diệu đế bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.

– Khổ đế: Đức Phật chỉ ra rằng, con người ta sống ở trên đời ai cũng phải gặp những điều đau khổ. Ngài đã khái quát cái khổ của con người thành 8 loại khổ (bát khổ):

+ Sinh (sinh ra đời và tồn tại cũng phải trải qua những đau khổ);

+ Lão (tuổi già sức yếu là khổ);

+ Bệnh (đau ốm là khổ);

+ Tử (chết là khổ);

+ Ái biệt ly khổ (những người thân yêu phải xa nhau là khổ);

+ Oán tăng hội khổ (những người có oán thù mà phải gặp gỡ cũng khổ);

+ Cầu bất đắc khổ (điều mong cầu không toại nguyện là khổ);

+ “Ngũ ấm xí thịnh khổ” (thân ngũ đại của con người được gọi là thân ngũ ấm, đó là: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Thân ngũ đại của con người luôn bị chi phối, khổ sở bởi luật vô thường, bởi thất tình, lục dục lôi cuốn… làm cho khổ sở).

Đức Phật nói Khổ đế không phải để làm cho con người buồn chán, bi quan mà trái lại, làm cho mọi người nhìn rõ về quy luật và thực tế của cuộc sống để trân trọng những gì mình có, khi gặp cảnh khổ cũng không hoảng loạn mà điềm tĩnh đón nhận, không bị hoàn cảnh chi phối, tìm phương án giải quyết cho tốt đẹp.

– Tập đế: nguyên nhân tạo thành những nỗi khổ hiện hữu ở đời, Đức Phật gọi là Tập đế. Đức Phật khái quát nguyên nhân nỗi khổ thành “Thập kết sử” (mười điều cốt lõi làm cho con người bị khổ đau), đó là: tham (tham lam), sân (giận dữ), si (si mê), mạn (kiêu ngạo), nghi (nghi ngờ), thân kiến (chấp ngã), biên kiến (hiểu biết không đầy đủ, cực đoan), tà kiến (hiểu không đúng, mê tín dị đoan…), kiến thủ (bảo thủ về ý kiến của mình), giới cấm thủ (làm theo lời răn cấm của tà giáo). 10 điều này đều có thể ở chính ngay trong con người và gây nên đau khổ, tuy nhiên Đức Phật nhấn mạnh đến 3 điều: Tham – Sân – Si, Phật giáo gọi là “Tam độc” là nguyên nhân chính của sự khổ đau.

– Diệt đế: Đức Phật chỉ ra kết quả an vui, hạnh phúc đạt được khi con người diệt trừ hết những nỗi khổ, muốn diệt khổ phải diệt tận gốc, đó là diệt cái nguyên nhân gây ra đau khổ.

– Đạo đế: là những phương pháp Đức Phật hướng dẫn để chúng sinh thực hành diệt khổ, được vui. Đây là phần quan trọng nhất trong Tứ diệu đế, vì khi biết rõ đau khổ, nguyên nhân của đau khổ, mong muốn được thoát khổ để đạt đến cảnh giới an vui nhưng nếu không có phương pháp hiệu nghiệm để thực hiện ý muốn ấy thì không giải quyết được vấn đề và càng thêm đau khổ. Do đó, Đạo đế đã được Đức Phật rất chú trọng, quan tâm để tuỳ căn cơ của chúng sinh mà phân tích cụ thể để hướng dẫn mọi người thực hiện cho phù hợp với bản thân mình.

Đạo đế có 37 phẩm chia làm 7 loại, đó là:

– Tứ niệm xứ (bốn điều mà người tu hành thường xuyên nghĩ đến): quán thân bất tịnh; quán tâm vô thường; quán pháp vô ngã; quán thọ thị khổ.

– Tứ chánh cần (bốn phép siêng năng chân chính để tinh tấn tu hành): tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh; tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sinh; tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh; tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.

– Tứ như ý túc (bốn phép thiền định để việc tu hành được phát triển): Dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, nhất tâm như ý túc và quán như ý túc.

– Ngũ căn (năm điều căn bản giúp người tu hành đạt chính quả): Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn.

– Ngũ lực (năm năng lực để cùng ngũ căn giúp người tu hành đạt chính quả): Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực và huệ lực.

– Thất bồ đề phần (bảy pháp tu tập giúp người tu hành thành tựu đạo quả đại giác): Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả.

– Bát chính đạo (8 con đường chân chính hợp với chân lý Tứ đế để tiến tới đạo Niết bàn, thoát khỏi khổ đau, đó là: Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến, chính niệm và chính định). Trong 37 nội dung trợ đạo như đã nói ở trên, Bát chính đạo được coi là pháp môn chính quan trọng nhất, nó phù hợp với mọi căn cơ, nhận thức, mọi thời đại và mọi người. Giá trị của Bát chính đạo là giúp người ta tu dưỡng thân tâm, cải thiện hoàn cảnh, thoát khỏi khổ đau, phiền não, bước lên con đường giải thoát, an vui, tự tại.

* Giáo luật

Giáo luật Phật giáo được Đức Phật chế ra xuất phát từ thực tế trong khi điều hành Tăng đoàn với những điều quy định, cấm nhằm duy trì tổ chức tăng đoàn, hướng mọi người tới chân – thiện – mỹ, phát triển hạnh từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha, biết làm lành lánh dữ để đạt tới giác ngộ và giải thoát.
Cốt lõi của giáo luật Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.

– Ngũ giới là 5 giới cấm:

+ Không sát sinh; 

+ Không nói sai sự thật;

+ Không tà dâm;

+ Không trộm cắp;

+ Không uống rượu.

– Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó:

+ Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm;

+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói điều ác, không nói thêu dệt;

+ Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.

Trên cơ sở của quy định Ngũ giới và Thập thiện, Phật giáo đã quy định chi tiết và cụ thể đối với từng loại xuất gia.

– Đối với hàng đệ tử xuất gia đã thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni:

Theo Luật Tứ phận thì kinh Giới bản quy định:

+ Tỳ kheo phải giữ 250 giới.

+ Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới.

Theo Nam truyền Luật tạng thì:

+ Tỳ kheo phải giữ 227 giới

– Đối với hàng đệ tử xuất gia còn ở bậc Sa di phải giữ 10 giới. Ngoài ngũ giới như đã nói ở trên, người tu ở bậc Sa di còn phải giữ thêm 5 giới nữa là:

+ Không trang điểm, không bôi nước hoa hay xức dầu thơm.

+ Không nằm giường đệm cao sang, giường rộng dùng cho hai người.

+ Không xem ca hát nhảy múa và cũng không được ca hát nhảy múa.

+ Không giữ vàng bạc.

+ Không ăn phi thời (quá giờ quy định).

Tăng Ni phải nương vào giới luật để làm mực thước sinh hoạt hàng ngày.

– Đối với Phật tử tại gia:

Sau khi thụ Tam quy (quy Phật, quy Pháp, quy Tăng) người Phật tử cần trì Ngũ giới để ngăn cấm những tưởng niệm ác, hành động bất chính, gieo lòng từ bi, bình đẳng trong chúng sinh giúp họ được tiến trên con đường giải thoát, an lạc.

Ngoài ra người Phật tử tuỳ căn cơ, sở nguyện có thể thụ Bát quan trai giới (8 giới). Nội dung Bát quan trai giới gồm có Ngũ giới và thêm 3 điều quy định nữa:

+ Không trang điểm

+ Không dùng đồ sang trọng (giường cao rộng; không ca múa hát xướng và cũng không xem nghe …).

+ Không ăn uống không đúng giờ.

– Đạo Phật cũng đưa ra những lời khuyên, hướng dẫn mọi người trong cách sống chung, tu hành cùng giữ trọn vẹn hòa khí, ví dụ như tinh thần Lục hòa (6 điều hòa hợp):

+ Thân hòa đồng trụ

+ Giới hòa đồng tu

+ Khẩu hòa vô tranh

+ Ý hòa đồng duyệt

+ Kiến hoà đồng giải

+ Lợi hòa đồng quân

Có thể nói, giáo luật của Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với truyền thống văn hoá của các dân tộc, đặc biệt là ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Giáo luật của Phật giáo đã có đóng góp không nhỏ vào việc điều chỉnh hành vi, hình thành nhân cách, đạo đức lối sống của một bộ phận đông đảo nhân dân Việt Nam.

* Lễ nghi

Lễ nghi của Phật giáo thể hiện sự trang nghiêm, tôn kính tới người sáng lập (đức Bổn sư). Ban đầu, lễ nghi của Phật giáo khá đơn giản và đồng nhất, song cùng với quá trình phát triển, Phật giáo phân chia thành nhiều tông phái và du nhập vào các dân tộc khác nhau, hoà đồng cùng với tín ngưỡng của người dân bản địa, lễ nghi của Phật giáo dần có sự khác biệt giữa các khu vực, vùng miền…

Một số ngày lễ, kỷ niệm lớn trong năm của Phật giáo (tính theo ngày âm lịch):

– Tết Nguyên đán

– Rằm tháng giêng: lễ Thượng nguyên

– Ngày 08/02 : Đức Phật Thích Ca xuất gia

– Ngày 15/02: Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn

– Ngày 19/02: Khánh đản Đức Quán Thế Âm Bồ tát

– Ngày 21/02: Khánh đản Đức Phổ Hiền Bồ tát

– Ngày 16/3: Khánh đản Đức Chuẩn Đề Bồ tát

– Ngày 04/4: Khánh đản Đức Văn Thù Bồ tát

– Ngày 15/4: Đức Phật Thích Ca đản sinh

– Ngày 13/7: Khánh đản Đức Đại Thế Chí Bồ tát

– Ngày 14/7: Lễ Tự tứ

– Ngày 15/7 : Lễ Vu lan

– Ngày 30/7: Khánh đản Đức Địa Tạng Bồ tát

– Ngày 30/9: Khánh đản Đức Phật Dược sư

– Ngày 17/11: Khánh đản Đức Phật A Di Đà

– Ngày 08/12: Đức Phật Thích Ca thành đạo

Đối với Phật giáo Nam tông Khmer còn có một số ngày lễ theo truyền thống người Khmer, như:

– Ngày 13 – 15/4 dương lịch: Lễ mừng năm mới (CholChơnam Thmây – Tết dân tộc của người Khmer);

– Ngày 30/8 dương lịch: Lễ cúng ông bà tổ tiên (lễ Donta)…

– Đầu tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch (sau khi kết thúc khoá hạ): Lễ Dâng Y (hay lễ Dâng Bông);

– Ngày 15/10 âm lịch: Lễ cúng trăng (Okcombok).

Với những giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết, hữu nghị mà Phật giáo đóng góp cho xã hội, năm 1999, tại phiên họp thứ 54 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã công nhận Đại lễ Phật đản, tên gọi theo truyền thống của Việt Nam (hay Đại lễ Vesak, Đại lễ Tam hợp Đức Phật – theo tên gọi quốc tế để kỷ niệm ngày Phật đản sinh, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn) là lễ hội văn hoá – tôn giáo quốc tế của Liên hợp quốc. Lễ hội này được tổ chức hàng năm tại trụ sở Liên hợp quốc và các trung tâm Liên hợp quốc trên thế giới.

Tổ chức của Phật Giáo

Phật giáo chủ trương không có giáo quyền, không công nhận thần quyền, không có tổ chức theo hệ thống thế giới. Ban đầu Phật giáo chỉ có những nhóm người cùng nhau đi truyền giáo, gọi là Tăng già hoặc Tăng đoàn hay Giáo đoàn. Tăng già có từ 4 người trở lên. Thành phần của đoàn thể Tăng già có thể bao gồm cả 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia.

Đứng đầu đoàn thể Tăng già là một vị Trưởng lão đạo cao đức trọng nhất trong đoàn thể được tập thể các sư suy tôn để quản lý, điều hành Tăng đoàn. Ngoài ra còn một số vị trong hàng Trưởng lão có đạo hạnh và tài năng đứng ra giúp việc.

Tuy nhiên, sau này trong quá trình du nhập và phát triển đến các quốc gia, Phật giáo đã theo tinh thần Khế lý – Khế cơ để có những hình thức tổ chức, sinh hoạt tăng đoàn cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như truyền thống, văn hoá của mỗi nơi.

Hệ phái, tông phái Phật giáo

Hệ phái Phật giáo

Trong 49 năm thuyết pháp, Đức Phật đã tuỳ theo căn cơ, đối tượng người nghe; tuỳ vào từng vấn đề; tuỳ vào phạm vi thời gian, không gian, điều kiện, hoàn cảnh… mà thuyết giảng. Sau khi Phật nhập Niết bàn, các vị Bồ tát, Thánh tăng đã tổ chức 4 lần kết tập kinh điển để lưu truyền giáo lý của Phật về sau cho các hàng đệ tử có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu, nghiên cứu và thực hành.

– Kết tập kinh điển thứ nhất được tổ chức tại thành Vương Xá sau khi Phật nhập diệt 7 ngày (có sách nói là 3 tháng) tập trung vào việc các Đại đệ tử của Phật tổng hợp và tụng lại các phần Kinh – Luật – Luận, tuy nhiên kết tập kinh điển lần này chỉ là sự tổng hợp và truyền tụng lại cho nhau qua lời nói, chưa có điều kiện để lưu lại trên văn tự.

– Kết tập kinh điển thứ hai được tổ chức tại thành Tỳ Xá Ly sau khi Phật nhập diệt hơn 100 năm để luận giải kinh điển, thực hành giới luật và tranh luận về 10 điều luật mới một bộ phận Tỳ kheo trẻ đưa ra.

– Kết tập kinh điển lần thứ ba được tổ chức tại Thành Hoa Thị sau khi Phật nhập diệt 236 năm và cho đến lúc này cả 3 tạng Kinh – Luật – Luận mới chính thức được ghi chép bằng văn tự Pa li vào các lá bối.

– Kết tập kinh điển lần thứ tư được tổ chức tại thành Ca Thấp Di La sau khi Phật nhập diệt khoảng 600 năm. 3 tạng Kinh – Luật – Luận thời kỳ này đã được khắc bằng chữ Phạn vào các lá đồng dát mỏng rồi được lưu giữ tại một ngôi tháp lớn ở nước Kế Tân.

Sự phân chia hệ phái trong Phật giáo xuất hiện từ lần kết tập kinh điển thứ 2. Trong 10 điều luật mới một bộ phận tỳ kheo trẻ đưa ra và cho là hợp chính pháp, đó là: giáo diêm tịnh (được đem muối đựng trong sừng để bỏ vào các món ăn khi không đủ muối); lưỡng chỉ sao thực tịnh (bóng nắng quá ngọ 2 ngón tay vẫn được ăn); tụ lạc gian tịnh (trước ngọ ăn rồi nhưng đến làng khác vẫn được phép ăn); trụ xứ tịnh (ở đâu thì làm lễ Bá tát ngay ở đấy); tuỳ ý tịnh (quyết nghị đã được Đại hội dù ít dù nhiều cho thông qua đều có giá trị thi hành); cửu trú tịnh (noi theo điều lệ, tập quán); sinh hoà hợp tịnh (được uống sữa pha nước sau giờ ngọ); thuỷ tịnh (rượu mới lên men được pha với nước uống trị bệnh); bất ích lũ Ni sư đàn tịnh (được dùng tọa cụ không viền, kích thước lớn hơn mẫu định); thụ súc kim ngân tiến định (được nhận tiền vàng bạc cúng dàng). Các vị tỳ kheo lớn tuổi không chấp nhận và cho đó là 10 điều phi pháp. Các vị tỳ kheo trẻ không chịu, tách ra thành lập một đoàn thể riêng với chủ trương hành đạo theo tinh thần “Khế lý – khế cơ”, phù hợp với căn cơ, hoàn cảnh từng thời kỳ, từng vùng, miền của chúng sinh. Vì các vị chiếm số đông nên gọi là phái Đại chúng bộ. Các vị cao tăng với chủ trương giữ y giới luật như ngày Đức Phật còn tại thế, đa số là những người đạo cao, đức trọng nên gọi là phái Thượng toạ bộ.

Phái Thượng toạ bộ truyền sang phía Nam qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia nên gọi là hệ phái Phật giáo “Nam truyền” hay “Nam tông”. Phái Thượng toạ bộ chủ trương tôn trọng lối truyền thừa và chủ trương tự độ, tự giác.

Phái Đại chúng truyền sang Trung Quốc rồi truyền vào Việt Nam và Triều Tiên, Nhật Bản … được gọi là hệ phái Phật giáo “Bắc truyền” hay “Bắc tông”. Phái này chủ trương linh động, khoan dung trong giới luật, không cố chấp vào từng chữ trong kinh để rút ra những bài học về triết lý thực hành với tinh thần nhập thế, phổ độ chúng sinh, làm cho chúng sinh cùng giác ngộ như mình, có nghĩa là: Tự độ, độ tha; Tự giác, giác tha.

Tông phái Phật giáo

Cùng với sự phân chia hệ phái của Phật giáo và với cách tiếp cận, nhìn nhận khác nhau về giáo lý Phật giáo, với tinh thần khế lý – khế cơ, từ hai phái lớn của Phật giáo lại được phân thành nhiều tông phái khác nhau. Có thể nói, sự hình thành các tông phái không phải là sự phân liệt, tranh chấp trong Phật giáo về quyền lợi, địa vị của Tăng chúng, cũng không phải là sự phủ định lẫn nhau mà đây chính là sự phát triển làm cho Phật giáo trở nên vững chắc.

Trước đây, Phật giáo có nhiều tông phái, sau này phần nhiều các tông phái có cùng khuynh hướng sát nhập lại với nhau, còn lại 10 tông phái:

1. Câu Xá tông

2. Thành Thật tông

3. Tam Luận tông

4. Pháp Tướng tông

5. Thiên Thai tông

6. Hoa Nghiêm tông

7. Luật tông

8. Thiền tông

9. Tịnh độ tông

10. Mật tông

Chín tông phái (từ 1 đến 9) thuộc loại bộ Hiển giáo. Trong Hiển giáo lại được chia ra Nam tông (1,2) và Bắc tông (từ 3 đến 9). Hiển giáo là thứ giáo lý có thể dùng ngôn ngữ để phát biểu, diễn đạt được. Hiển giáo là do Báo thân và Ứng thân Phật thuyết pháp.

Đối với Mật tông thuộc loại bộ Mật giáo, là thứ giáo lý không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Mật giáo là do Pháp thân Phật thuyết pháp, do đó giáo phái này còn được gọi là Chân Ngôn hay Chân Ngôn tông.

Quá trình truyền bá đạo Phật vào Việt Nam

Theo sử sách Phật giáo Việt Nam còn ghi lại, đạo Phật du nhập vào Việt Nam cả 2 hệ phái: Phật giáo Nam tông (từ phía Nam truyền xuống) và Phật giáo Bắc tông (từ phía Bắc truyền sang) qua 2 con đường:

– Đường bộ: năm 198 Phật giáo chính thức được truyền vào Việt Nam qua đường bộ từ Trung Quốc xuống với tên tuổi của các danh Tăng nổi tiếng như: Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà La…

– Đường thuỷ: đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ 2 hướng:

+ Thế kỷ XIII, đạo Phật được truyền từ Srilanca vào “Thuỷ Chân Lạp”, nay là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

+ Khoảng giữa thế kỷ XVI, vào thời nhà Thanh ở Trung Quốc, khi đời sống xã hội bất ổn, một số thiền sư thuộc Thiền phái Lâm Tế đã đi theo các tàu buôn sang lánh nạn ở Việt Nam và địa phương nơi tiếp nhận phái thiền này đầu tiên là khu vực tỉnh Bình Định ngày nay.

Có một số nhà nghiên cứu cho rằng có dấu hiệu đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ III (trước công nguyên) tại khu vực Đồ Sơn (thành phố Hải Phòng) do một số Tăng sĩ Ấn Độ đi cùng các thương nhân đến buôn bán ở Việt Nam. Như vậy, có thể nói dù đạo Phật truyền vào Việt Nam thời gian nào thì cũng phải khẳng định đạo Phật là một tôn giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm so với các tôn giáo khác và có sự gắn bó, hoà đồng với truyền thống, văn hoá, bản sắc của dân tộc Việt, được người Việt chấp nhận để có thể tồn tại và phát triển đến ngày nay.
Phật giáo khi truyền vào Việt Nam lúc đầu phát triển theo đơn vị gia cư, mỗi cơ sở Phật giáo như là một gia đình, gọi là “Trụ xứ tòng lâm”, từ đó lại phát triển ra nhiều chùa theo một sư tổ, thành một dòng họ và được gọi thành tên khác nhau ở mỗi miền: ở miền Bắc gọi là “Sơn môn”, ở miền Trung gọi là “Môn phái” và miền Nam gọi là “Môn phong”.

Đóng góp của Phật Giáo Việt Nam với đất nước qua các thời kỳ

Trải qua các triều đại phong kiến, thời nhà Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần và qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Phật giáo Việt Nam đều có những đóng góp to lớn trong công cuộc hộ quốc, an dân. Công lao của Phật giáo Việt Nam đã được các triều đại, nhà nước và lịch sử Việt Nam ghi nhận. Thời nhà Đinh có Thiền sư Ngô Chân Lưu (933 – 1011) được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm Khuông Việt Đại sư và phong chức Tăng thống đứng đầu Phật giáo cả nước vì những đóng góp quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Thời nhà Lý có Thiền sư Vạn Hạnh được vua Lý Công Uẩn phong làm Quốc sư vì đã có nhiều cống hiến để xây dựng nên sự thịnh vượng của vương triều Lý; ngoài ra còn có các vị Thiền sư: Đa Bảo, Sùng Phạm, Không Lộ, Mãn Giác, Viên Thông … là những danh tăng đã hết lòng phù trợ triều đình để xây dựng đất nước phát triển rực rỡ trong một thời gian dài… Thời nhà Trần, đạo Phật tuy không trực tiếp tham gia vào các công việc triều chính như thời kỳ trước nhưng lại có đóng góp rất to lớn về các mặt tư tưởng, văn hoá, xã hội. Các Thiền sư, Hoàng đế thời Trần đã lập nên một hệ tư tưởng cho Phật giáo Việt Nam, đó là Thiền phái Trúc Lâm và tiêu biểu là Đức vua Trần Nhân Tông sau khi rời bỏ ngai vàng đã khai sáng ra phái thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc ta, nhiều Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử Phật giáo Việt Nam đã tham gia đoàn quân cứu nước và nhiều vị đã anh dũng hy sinh thân mình cho Tổ quốc. Nhiều ngôi chùa Phật giáo Việt Nam đã trở thành cơ sở cách mạng, nuôi giấu cán bộ, dự trữ lương thảo, quân nhu … phục vụ quân đội trong suốt những năm tháng chiến tranh.

Đánh giá về công lao của Phật giáo đối với dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã phát biểu trong buổi tiếp các đại biểu của Hội nghị Thống nhất Phật giáo Việt Nam: “Trong quá khứ, Phật giáo Việt Nam đã gắn chặt với dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Lịch sử đã xác nhận Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo mà từ bản chất, bản sắc từ trong thực tiễn hoạt động của mình đã biểu hiện truyền thống yêu nước, gắn bó chặt chẽ với dân tộc, với Tổ quốc”.

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

* Lịch sử hình thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Từ khi du nhập vào Việt Nam, đạo Phật tồn tại và phát triển theo truyền thống sơn môn. Các sơn môn sinh hoạt độc lập, ít có sự liên hệ và chịu sự chi phối của các sơn môn khác.
Khi thực dân Pháp đem quân xâm lược nước ta, cũng là lúc Pháp mang theo văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo phương Tây truyền bá vào Việt Nam, mặt khác ra sức kỳ thị, chèn ép Phật giáo với mưu đồ xoá dần tín ngưỡng, tôn giáo, văn hoá truyền thống của người dân Việt. Trong nước, Phật giáo không còn được sự ủng hộ như trước đây … Bản thân Phật giáo lúc này nặng về tín ngưỡng hơn tư duy. Từ bối cảnh đó, một số Tăng Ni, Cư sĩ có tâm huyết và tinh thần đạo pháp, dân tộc đã quyết tâm chỉnh đốn lại bằng cách mở trường Phật học, dịch kinh điển sang chữ quốc ngữ cho Tăng Ni, Phật tử dễ học, dễ hiểu, xây dựng các cơ sở xã hội, ra các tờ tạp chí với mục đích giúp đỡ nhau cùng học Phật và hoằng pháp, nêu cao tinh thần dân tộc. Chương trình học văn hoá cũng được đưa vào giáo dục cho Tăng Ni.

Phong trào “Chấn hưng Phật giáo” ở cả 3 miền Trung – Nam – Bắc trong những thập niên 30, 40 của thế kỷ XX đã thổi bùng lên truyền thống yêu nước và ý thức trách nhiệm đối với Dân tộc và Đạo pháp của Tăng Ni, Phật tử, nhất là sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Cùng với các tổ chức cứu quốc khác, Phật giáo cứu quốc ra đời…

Phật giáo Việt Nam đã ý thức được rằng muốn có sức mạnh thật sự phải cùng nhau đoàn kết, tập hợp nhau trong một tổ chức để chấn hưng đạo pháp, bảo vệ văn hoá truyền thống, góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc. Đó là lý do để Phật giáo tiến hành các cuộc vận động thống nhất Phật giáo trong cả nước:Cuộc vận động thống nhất Phật giáo lần thứ nhất (năm 1951) với sự tham dự của 6 đoàn thể Phật giáo ở 3 miền; Cuộc vận động thành lập Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam ở các tỉnh, thành phố phía Bắc (năm 1957, 1958); Cuộc vận động thống nhất Phật giáo năm 1964 tại miền Nam để thành lập nên “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất”. Tuy nhiên, sự thống nhất của 3 cuộc vận động này chưa được trọn vẹn vì đây không phải là sự thống nhất của Phật giáo trên toàn quốc mà chỉ là sự thống nhất của một số tổ chức Phật giáo hay của một miền.

Cuộc vận động thống nhất Phật giáo cả nước, thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Đầu năm 1980, thể theo nguyện vọng của toàn thể Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử, các vị Giáo phẩm đại diện cho các tổ chức hệ phái lớn của Phật giáo họp tại thành phố Hồ Chí Minh và quyết định thành lập “Ban Vận động thống nhất Phật giáo” để xúc tiến cuộc vận động trong phạm vi cả nước, bao gồm đại diện của 9 tổ chức, hệ phái:

– Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam (ở miền Bắc);

– Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (Ấn Quang);

– Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh;

– Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam;

– Giáo hội Tăng già nguyên thuỷ Việt Nam;

– Hội đoàn kết sư sãi yêu nước Tây Nam bộ (Phật giáo Khmer);

– Giáo phái Khất sĩ Việt Nam;

– Giáo hội Thiên Thai giáo quán tông;

– Hội Phật học Nam Việt.

Tháng 11/1981 Đại hội thống nhất Phật giáo đã được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội với sự tham dự của 168 vị Giáo phẩm, Tăng Ni, Cư sĩ đại diện cho 9 tổ chức, hệ phái nói trên để thành lập nên một tổ chức chung của Phật giáo cả nước lấy tên là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam). Tại Lời nói đầu của Hiến chương, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định: Sự thống nhất Phật giáo Việt Nam đặt trên nguyên tắc: “Thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức, tuy nhiên, các truyền thống hệ phái và phương tiện tu hành đúng chính pháp vẫn được duy trìvà xác định Phương châm hoạt động của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là: Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là tổ chức Giáo hội duy nhất đại diện cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nướcHiến chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định: “Mục đích của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là điều hoà, hợp nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam cả nước để hộ trì hoằng dương Phật pháp và tham gia xây dựng bảo vệ Tổ quốc, phục vụ dân tộc, góp phần xây dựng hoà bình, an lạc cho thế giới”.

* Các kỳ Đại hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng đoàn kết, thống nhất Phật giáo Việt Nam của đông đảo Tăng Ni, Phật tử Phật giáo Việt Nam để thực hiện sự nghiệp truyền bá và duy trì giáo lý Phật giáo, đóng góp công sức cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Đến nay, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã trải qua 6 kỳ Đại hội.

– Đại hội lần thứ I (nhiệm kỳ 1981 – 1987) của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chính là Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 11/1981. Đây được coi là thời kỳ xây dựng nền móng cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Về hệ thống tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có 2 cấp: cấp trung ương và cấp tỉnh dưới sự lãnh đạo của 2 Hội đồng: Hội đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự; giúp việc cho trung ương Giáo hội có 2 Văn phòng: Văn phòng I (đặt tại Hà Nội) và Văn phòng II (đặt tại thành phố Hồ Chí Minh) và 6 ban hoạt động (Ban Tăng sự; Ban Giáo dục Tăng Ni; Ban Hướng dẫn nam nữ Cư sĩ Phật tử; Ban Hoằng pháp; Ban Nghi lễ; Ban Văn hóa), thành lập được 28 Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh.

– Đại hội lần thứ II (nhiệm kỳ 1987 – 1992) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 10/1987. Đây là giai đoạn phát triển các mặt hoạt động theo chương trình nội dung 6 điểm của Giáo hội trong thời kỳ đổi mới của xã hội và đất nước, số lượng Ban Trị sự được thành lập lên tới 33 đơn vị và bổ sung thêm 2 ban ngành hoạt động (Ban Kinh tế nhà chùa và Từ thiện xã hội; Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam) thành 8 ban chuyên môn.

– Đại hội lần thứ III (nhiệm kỳ 1992 – 1997) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 11/1992. Đây là giai đoạn tiếp tục phát triển và hoàn chỉnh các mặt hoạt động của Giáo hội. Giáo hội đã có 10 ban, viện hoạt động và được duy trì cho tới ngày nay (thành lập thêm Ban Phật giáo Quốc tế và tách Ban Kinh tế nhà chùa và Từ thiện xã hội thành 2 ban: Ban Kinh tế Tài chính và Ban Từ thiện xã hội) và 41 Ban Trị sự Phật giáo.

– Đại hội lần thứ IV (nhiệm kỳ 1997 – 2002) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 11/1997. Giáo hội đã thành lập được 45 đơn vị tỉnh, thành hội Phật giáo trong cả nước với 10 ban, viện hoạt động.

– Đại hội lần thứ V (nhiệm kỳ 2002 – 2007) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 12/2002. Đây là nhiệm kỳ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam củng cố các ban, viện. Kết thúc nhiệm kỳ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã có 54 Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo.

– Đại hội lần thứ VI (nhiệm kỳ 2007 – 2012) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 12/2007. Đại hội được coi là một bước thay đổi lớn trong quá trình phát triển của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, nổi bật là cải tiến về vấn đề nhân sự tham gia vào bộ máy lãnh đạo của Phật giáo ở các cấp, đặc biệt quan tâm đến sự kế thừa trong Giáo hội, ưu tiên trọng dụng đội ngũ Tăng Ni trẻ có trình độ và uy tín, năng lực. Đại hội cũng đã thông qua bản Hiến chương sửa đổi có quy định về Đạo kỳ, Đạo ca và hệ thống tổ chức được nâng lên 3 cấp thay vì 2 cấp như trước đây: cấp trung ương – cấp tỉnh – cấp huyện; tăng số lượng thành viên tham gia Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự và Ban Trị sự Phật giáo.

Trên cơ sở hệ thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ của Đạo Phật và các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động tôn giáo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã trải qua 6 kỳ Đại hội với 4 lần sửa đổi Hiến chương (tại Đại hội lần thứ II, III, IV và VI) và đã có những điều chỉnh kịp thời trong từng giai đoạn nhất định cho phù hợp với yêu cầu và thực tế khách quan để củng cố tổ chức và đáp ứng được yêu cầu đề ra.

* Về số lượng: Tính đến tháng 6/2010, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có 56/63 Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo cấp tỉnh, 01/63 Ban Đại diện Phật giáo cấp thị xã (chưa có tổ chức bộ máy Phật giáo cấp tỉnh); 14.775 cơ sở thờ tự, 44.498 Tăng Ni (trong đó Bắc tông có 32.165 vị, Nam tông có 9.379 vị, Khất sĩ có 2.954 vị) và trên 10.000.000 tín đồ được phân bố trên phạm vi toàn quốc.

* Thành phần tham gia Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Thành phần của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam gồm các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam, Tăng Ni và Cư sĩ thuộc các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam đã hợp nhất, hình thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và chấp nhận Hiến chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Thành phần Tăng, Ni trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam gồm 2 thành phần: giáo phẩm và đại chúng.

– Thành phần giáo phẩm

+ Giáo phẩm Tăng: Hoà thượng, Thượng tọa

+ Giáo phẩm Ni: Ni trưởng, Ni sư

– Thành phần đại chúng: gồm những Tăng, Ni đã thụ giới Tỳ kheo (Đại đức), Tỳ kheo Ni (Sư cô), Thức xoa Ma na, Sa di, Sa di Ni.

* Cơ cấu tổ chức

– Cấp Trung ương

+ Hội đồng Chứng minh: gồm các vị Hoà thượng tiêu biểu của các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam có 70 tuổi đời, 50 tuổi đạo trở lên, không giới hạn số lượng và được Đại hội Phật giáo toàn quốc suy tôn. Hội đồng Chứng minh suy cử một Ban thường trực do một vị Hoà thượng Pháp chủ đứng đầu. Ban thường trực Hội đồng Chứng minh có nhiệm vụ: Chứng minh các Hội nghị Trung ương và Đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam; Hướng dẫn và giám sát các hoạt động của Giáo hội về mặt đạo pháp và giới luật; Phê chuẩn tấn phong chức vị giáo phẩm Hoà thượng, Thượng toạ, Ni trưởng, Ni sư của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam; Ban hành Thông điệp về Phật đản, Thư chúc tết và tình hình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những tình huống đặc biệt.

+ Hội đồng Trị sự: gồm các vị Hoà thượng, Thượng toạ, Đại đức, Tăng Ni và Cư sĩ của Giáo hội do Ban thường trực Hội đồng Trị sự tiền nhiệm đề cử và Đại hội đại biểu Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam suy cử. Hội đồng Trị sự là cấp điều hành cao nhất của Giáo hội về các mặt hoạt động của Giáo hội giữa hai kỳ Đại hội, ấn định chương trình hoạt động hàng năm của Giáo hội theo đúng Nghị quyết của Đại hội đại biểu Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và đôn đốc, kiểm soát việc thực hiện chương trình đó. Hội đồng Trị sự có nhiệm vụ suy cử một vị Hoà thượng Chủ tịch đứng đầu và suy cử Ban thường trực để Ban này thay mặt Hội đồng Trị sự điều hành hoạt động của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam theo nội quy của mình và có đệ trình để Hội đồng Chứng minh biết.

Bộ máy giúp việc cho hoạt động ở cấp trung ương gồm có 9 ban, 1 viện (Ban Tăng sự, Ban Giáo dục Tăng Ni, Ban Hướng dẫn Phật tử (gồm 2 phân ban: Cư sĩ Phật tử và Gia đình Phật tử), Ban Hoằng pháp, Ban Nghi lễ, Ban Văn hóa, Ban Kinh tế – Tài chính, Ban Từ thiện xã hội, Ban Phật giáo Quốc tế, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (có 1 phân viện đặt tại Hà Nội)) và 4 vị ủy viên kiểm soát, 2 ủy viên pháp chế, 2 văn phòng.

Các ban, viện hoạt động trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban. Chương trình hoạt động phải phù hợp với Nội quy hoạt động của Ban thường trực Hội đồng Trị sự và được Ban thường trực Hội đồng Trị sự thông qua mới được thực hiện. Các ban, viện có thể thành lập các phân ban, phân viện để phụ trách các chuyên ngành hoạt động theo nội quy riêng được Ban thường trực Hội đồng Trị sự chuẩn y. Việc sửa đổi, bổ sung nội quy do từng ban, ngành, viện đề xuất và được Ban thường trực Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam xét duyệt, chấp thuận.
Hai văn phòng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam: có trách nhiệm giúp việc cho Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự và phối hợp với các ban, viện triển khai công tác Phật sự trong lĩnh vực hành chính, văn phòng.
Nhiệm kỳ hoạt động của Ban thường trực Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự và các ban, viện, ủy viên, văn phòng là 5 năm, tương ứng với nhiệm kỳ Đại hội.

– Cấp tỉnh: Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo có trách nhiệm điều hành hoạt động của Phật giáo địa phương theo đúng Hiến chương của Giáo hội và phù hợp với pháp luật Việt Nam, đồng thời triển khai các công việc Phật sự theo sự chỉ đạo của Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

– Cấp huyện: Ban Đại diện Phật giáo là cơ quan giúp việc cho Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo cấp tỉnh, thực hiện các công việc Phật sự ở địa phương mình theo chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ theo nội quy do Giáo hội ban hành.
Những phường xã, thị trấn có nhiều cơ sở thờ tự và Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử thì Ban Đại diện Phật giáo giới thiệu để Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh bổ nhiệm một đại diện phường, xã, thị trấn hay liên phường, xã, thị trấn tại địa phương làm đầu mối để giúp Ban Đại diện Phật giáo cấp huyện liên hệ với các cơ sở của Giáo hội về mặt sinh hoạt tín ngưỡng.

* Một số hoạt động cơ bản của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

– Hoạt động Tăng sự: Hàng năm, Ban Tăng sự đều triển khai các công tác: Thống kê Tăng Ni, Tự Viện để bổ sung vào danh bộ của Giáo hội; cấp Giấy chứng nhận cho Tăng Ni để công nhận là nhà sư thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam; tổ chức An cư Kiết hạ để chấn chỉnh quy củ sinh hoạt và nề nếp của Tăng Ni, đồng thời giúp cho Tăng Ni có thời gian và điều kiện học tập, trau dồi đạo hạnh, trí tuệ; tổ chức các Giới đàn thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Thức xoa Ma na, Sa di, Sa di Ni và thụ Thập thiện và Bồ Tát giới cho hàng Phật tử tại gia, đây là sự ghi nhận về sự tăng trưởng đạo pháp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đối với hàng đệ tử xuất gia và tại gia, đồng thời cũng hướng cho họ tu học theo đúng chính pháp; bổ nhiệm sư trụ trì tại các cơ sở thờ tự của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam để quản lý và phục vụ tín ngưỡng Phật giáo cho nhân dân; bồi dưỡng hành chính và trụ trì cho Tăng Ni để trang bị kiến thức cho các vị thực hiện mọi hoạt động tuân thủ Hiến chương của Giáo hội và pháp luật của Nhà nước.

Công tác Tăng sự của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc ổn định sinh hoạt Phật giáo ở trung ương cũng như địa phương, giúp cho Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quản lý tổng thể và tương đối toàn diện về sự phát triển (trên cả 2 mặt: số lượng và chất lượng) của Giáo hội để đề ra những chủ trương, phương hướng hoạt động trong từng giai đoạn cụ thể, phù hợp với phương châm Giáo hội đã đề ra.

– Hoạt động giáo dục Tăng Ni: Ngay từ sau khi thành lập, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã mở trường Cao cấp Phật học Việt Nam (đến ngày 23/6/1997 đổi tên thành “Học viện Phật giáo Việt Nam”) cơ sở 1, đặt tại Hà Nội và khai giảng khoá I vào tháng 12/1981; cơ sở 2 đặt tại thành phố Hồ Chí Minh và khai giảng khoá I vào tháng 10/1984. Đến nay, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã có 4 Học viện Phật giáo, 8 lớp Cao đẳng Phật giáo (tháng 8/2009, Trường Trung cấp Phật học thành phố Hải Phòng được Chính phủ chấp thuận cho nâng cấp lên thành Trường Trung – Cao đẳng Phật học) và 32 trường Trung cấp, hàng trăm lớp sơ cấp Phật học và thường xuyên tổ chức các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho Tăng Ni, Cư sĩ thuộc thành viên Ban Giáo dục Tăng Ni, Ban Giảng huấn các trường tham dự… Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã đào tạo được hàng ngàn Tăng Ni có trình độ Cử nhân Phật học và Cao đẳng Phật học, hàng vạn Tăng Ni có trình độ Trung cấp Phật học. Ngoài ra, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam còn cử hàng trăm Tăng Ni đi du học làm Nghiên cứu sinh, Thạc sĩ Phật học và rất nhiều Tăng Ni đi học Phật học cũng như thế học, ngôn ngữ ở nước ngoài. Hiện nay đã có trên 200 Tăng Ni về nước tham gia các ban, viện trung ương, Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo địa phương và các cơ sở giáo dục Phật giáo…

– Hoạt động hoằng pháp: Công tác hoằng pháp được đặt ra ngay từ khi thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Hàng năm Ban Hoằng pháp trung ương tổ chức các khoá đào tạo, bồi dưỡng, hội thảo nghiệp vụ cho Giảng sư đoàn trung ương cũng như đoàn Giảng sư các tỉnh; tổ chức các Hội thi giáo lý cho Cư sĩ, Phật tử; thuyết giảng tại các đạo tràng, hướng dẫn Phật tử tu tập Bát quan trai…
Trong những năm qua công tác hoằng pháp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã hướng dẫn được đông đảo Phật tử tu học theo đúng chính pháp của Đức Phật, góp phần nâng cao nhận thức giáo lý Phật giáo cho Phật tử, bài trừ tệ nạn lợi dụng tín ngưỡng Phật giáo để hành nghề mê tín dị đoan và giữ gìn sự đoàn kết, ổn định trong một bộ phận xã hội.

– Hoạt động hướng dẫn Phật tử: Công tác hướng dẫn Phật tử được chia thành 2 phần chính: hướng dẫn Cư sĩ, Phật tử và hướng dẫn Gia đình Phật tử. Công tác hướng dẫn Cư sĩ, Phật tử nổi bật nhất là thông qua hướng dẫn hoạt động của các đạo tràng như: Pháp Hoa, Dược sư, Tịnh độ, tu Thiền… cho các giới nam, nữ Phật tử tại các cơ sở tự viện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong toàn quốc. Công tác hướng dẫn Gia đình Phật tử sinh hoạt trong các nhà chùa cũng được quan tâm.

– Hoạt động văn hoá: Đến tháng 6/2010, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã có 6 ấn phẩm Phật giáo được phép xuất bản, đó là: Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Tạp chí Văn hoá Phật giáo, Tạp chí Khuông Việt, Tạp chí Nguyên Thuỷ, Tuần báo Giác Ngộ và Nguyệt san Giác Ngộ. Bên cạnh đó, hàng năm Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ở trung ương và địa phương đã xin xuất bản hàng trăm đầu kinh sách và băng, đĩa để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, đọc tụng, học tập, nâng cao sự hiểu biết về văn hoá Phật giáo gắn với văn hoá dân tộc cho Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước.

– Hoạt động kinh tế tài chính: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam với chủ trương tự chủ về kinh phí hoạt động và góp phần xây dựng đất nước, do đó kinh phí được Giáo hội huy động tập trung từ một số nguồn cơ bản: vận động các cơ sở thờ tự tạo nguồn kinh tế nhà chùa; thành lập Công ty kinh doanh các ấn phẩm Phật giáo và tổ chức các tour du lịch Phật giáo trong và ngoài nước; vận động Tăng Ni, Tự viện đóng góp… và thực tế đã chứng minh, trong gần 3 thập kỷ qua Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã tồn tại, phát triển và có nhiều đóng góp cho đất nước trong các công tác từ thiện, nhân đạo … bằng chính nội lực của mình.

– Hoạt động từ thiện xã hội: Công tác từ thiện xã hội là những hoạt động Phật sự mang tinh thần nhân đạo, thể hiện sự nhập thế của Phật giáo Việt Nam, là một trong những công tác trọng tâm của Giáo hội. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hiện có 126 Tuệ Tĩnh đường và phòng phát thuốc từ thiện; hàng trăm phòng thuốc chẩn trị y học dân tộc; trên 1000 lớp học tình thương; nhiều cơ sở nuôi dạy trẻ mẫu giáo bán trú, trẻ mồ côi, khuyết tật; nhiều trường dạy nghề miễn phí, hàng chục cơ sở chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS… và rất nhiều các hoạt động khác. Chỉ riêng nhiệm kỳ V (2002 – 2007), Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã tổ chức cứu trợ đồng bào bị thiên tai, dịch bệnh và các hoạt động nhân đạo từ thiện khác với tổng số kinh phí trên 400 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam còn tham gia các hoạt động ủng hộ, cứu trợ nhân dân thế giới bị ảnh hưởng bởi các cuộc thiên tai, bão lũ …

– Hoạt động Phật giáo quốc tế: Trong xu thế toàn cầu hoá, với tinh thần hoà bình, hữu nghị, hợp tác với Phật giáo các nước trên thế giới, hoạt động Phật giáo quốc tế của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã ngày càng phát triển và đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam luôn tích cực tham gia các tổ chức và hoạt động Phật giáo tiến bộ trên thế giới, như:

+ Tham gia là thành viên của tổ chức ABCP (Asian Buddhist Confrence for Peace – Tổ chức Phật giáo Châu Á vì hoà bình). Mục tiêu của ABCP là đấu tranh vì hoà bình, hạnh phúc cho con người, chống chiến tranh.

+ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tham gia các kỳ Đại lễ Vesak (ngày tam hợp đức Phật: ngày Phật sinh, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn). Đại Hội đồng Liên hợp quốc tại phiên họp thứ 54, mục 174 của chương trình nghị sự (ngày 15 tháng 12 năm 1999) đã chính thức công nhận Đại lễ Vesak là một lễ hội văn hóa, tôn giáo quốc tế của Liên hợp quốc, tôn vinh giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết hữu nghị của Đức Phật. Năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã đăng cai và tổ chức thành công Đại lễ Vesak Liên Hợp quốc với sự tham gia của Phật giáo 74 quốc gia và vùng lãnh thổ.

+ Tham gia tổ chức Ni giới thế giới: Đây là tổ chức hoạt động nhằm khẳng định quyền bình đẳng nam nữ, tạo cơ hội cho nữ giới trong các hệ phái Phật giáo tu học, hoạt động vì mục tiêu hòa bình và công bằng xã hội. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã đăng cai tổ chức Hội nghị Ni giới thế giới lần thứ 11 tại Việt Nam (vào tháng 12/2009) đạt kết quả tốt.

+ Tham gia là thành viên của Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo thế giới (tên đầy đủ là Hội Phật giáo Thế giới truyền bá chánh pháp).
Ngoài ra, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có quan hệ ngoại giao, thân hữu với rất nhiều nước có Phật giáo như: Srilanca, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào, Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Singapore, Indonesia… Tăng Ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam còn có các quan hệ cá nhân hoặc trong sơn môn, pháp phái với Tăng Ni, Phật tử người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài, tập trung ở một số nước như: Mỹ, Pháp, Canada, Ba Lan, Ucraina, …

Hiện nay đã có trên 300 ngôi chùa Việt Nam ở gần 30 nước trên thế giới.

– Hoạt động nghiên cứu Phật học: Tập trung vào một số lĩnh vực: nghiên cứu, phiên dịch và xuất bản kinh sách, Tạp chí Phật học; tổ chức và tham dự các cuộc hội thảo, hội nghị, các hoạt động Phật giáo trong nước và quốc tế (ví dụ: giới thiệu về lịch sử Phật giáo và Phật giáo Việt Nam; phối hợp với Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo về các vị danh tăng thuộc Phật giáo Việt Nam có công với đạo Pháp và dân tộc …); tổ chức các thư viện, phòng đọc sách phục vụ nhu cầu nghiên cứu và học tập của Tăng Ni, Phật tử;…
Hoạt động nghiên cứu Phật học của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã góp phần vào làm phong phú kho tàng tri thức của Phật giáo Việt Nam và có những đóng góp nhất định vào sự tìm hiểu mối tương quan giữa văn hoá Phật giáo với văn hoá dân tộc Việt Nam.

– Hoạt động nghi lễ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được hợp thành bởi 9 tổ chức, hệ phái Phật giáo khác nhau và mỗi tổ chức, hệ phái lại có những đặc thù và truyền thống riêng, do đó với tinh thần tôn trọng sự biệt truyền của từng hệ phái Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam khó có thể đưa ra một quy định nghi lễ thống nhất trong toàn Giáo hội, tuy nhiên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã có hướng dẫn các địa phương, các hệ phái tổ chức những ngày lễ trọng của Phật giáo (như: Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan Báo hiếu, Lễ Tưởng niệm …) trên tinh thần chung là bảo tồn nét văn hoá truyền thống của Phật giáo Việt Nam, đó là đoàn kết, trang nghiêm, đảm bảo nếp sống văn hoá mới, giữ gìn an ninh trật tự và không trái với quy định của luật pháp nhà nước. Thực tế những năm qua cho thấy, các nghi lễ trong lễ hội Phật giáo cũng như các hoạt động khác của Giáo hội đã góp phần làm phong phú thêm cuộc sống tinh thần của một bộ phận đồng bào theo đạo, đồng thời có những đóng góp vào truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam.

Ngoài các hoạt động nêu trên, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam còn có rất nhiều hoạt động khác để “dưỡng đạo”, “hành đạo” và “quản đạo”, không ngừng củng cố tổ chức Phật giáo từ trung ương đến các địa phương; tổ chức các kỳ Hội nghị, Đại hội; phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, thuyên chuyển … chức sắc tôn giáo; xây, sửa cơ sở thờ tự;…

Gần hai ngàn năm có mặt ở Việt Nam, đạo Phật đã trải qua nhiều thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc, song thời nào Phật giáo cũng lấy đức Từ bi để giáo hoá chúng sinh, lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Phật giáo Việt Nam đã xây dựng cho mình truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc.

Tiếp nối truyền thống đó của Phật giáo Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã và đang viết tiếp vào trang sử vàng của Phật giáo Việt Nam, tiếp tục khẳng định chỗ đứng của Phật giáo trong lòng dân tộc. Với bản chất từ bi, yêu tự do, yêu hoà bình, tôn trọng sự sống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay với phương châm hoạt động “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” luôn tích cực trong các phong trào tương thân tương ái, giúp đỡ cộng đồng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, xây dựng xã hội bình đẳng và văn minh, xứng đáng là một tôn giáo “Hộ quốc  An dân”.

Minh Nga
Phó Vụ trưởng Vụ Phật giáo
Ban Tôn giáo Chính phủ

Phật giáo

Giáo lý cơ bản của đạo Phật

Những giáo lý của đạo Phật đều được nhắc rõ ràng trong kinh sách, tuy nhiên có nhiều cách lý giải khác nhau bởi nhiều trường phái khách nhau tạo nên hệ thống triết lý khá phức tạp.

988

Giáo pháp

Giáo pháp của Phật giáo được tập hợp trong Tam tạng gồm:

Kinh tạng: là những bài giảng của chính Đức Phật hoặc các đại đệ tử của Ngài. Kinh tạng được chia làm 5 bộ: Trường bộ kinh, Trung bộ kinh, Tương ưng, bộ kinh, Tăng chi bộ kinh, Tiểu bộ kinh.

Luật tạng: Được ra đời chỉ vài mươi năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, là tạng sách cổ nhất, nội dung thể hiện lịch sử phát triển của Tăng – già và các giới luật của người xuất gia.

Luận tạng: Hình thành khá trễ, thể hiện các quan niệm đạo Phật về triết học và tâm lý học.

Những giáo lý của Phật giáo được thể hiện trong các luận điểm như:

Tứ Thánh đế (Tứ Diệu Đế):

Đây là tư tưởng căn bản, cốt lõi của Phật pháp.

Bốn chân lý giúp chúng ta nhận biết bản chất của sự khổ đau trong luân hồi, nguyên nhân và phương pháp giải trừ đau khổ.

Đức phật có dạy rằng cuộc đời có khổ đau (gọi gọi là khổ đế), có nguyên nhân (gọi là Tập đế), có thể dập tắt (gọi là Diệt đế), và con đường bát chánh đạo – Trung đạo sẽ giúp diệt khổ (gọi là Đạo đế).

Tứ đế thể hiện đầy đủ về quá trình nhận thức các loại khổ đau, nguyên nhân, trạng thái không còn khổ đau và con đường thoát khổ.

Và để thoát khổ được thì phải nhận thức đúng đắn về đau khổ. Đó là quan điểm triết học mang tính duy lý.

– Khổ đế: những khổ đau về: sinh lão, bệnh, tử; khổ tâm gồm: sống với người mình ghét, chia lìa người thân, những mong muốn mà không được như ý, chấp vào thân ngũ uẩn. Trước hết cần phải thừa nhận khổ đau, không nên trốn tránh, phớt lờ hay cường điệu hóa, nhận thức về khổ đau một cách toàn diện, sâu sắc.

– Tập đế: Chính là nguyên nhân của khổ đau bao gồm: tham ái, sân hận, si mê và chấp thủ. Khi tìm được đúng nguyên nhân đó trong luân hồi chuyển kiếp do vô minh và ái dục được chỉ rõ trong 12 nhân duyên.

– Diệt đế: Đó là trạng trái không còn khổ đau, là sự giải thoát tận cùng chân thực, đó là hạnh phúc khi chấm dứt sự vô minh hay dục vọng của con người.

– Đạo đế: Đây là chân lý con đường diệt khổ hay chính xác là phương pháp để diệt khổ gồm tám nhánh- bát chính đạo và xoay xung quanh ba trụ cột lớn  Trí tuệ- Đạo đức- Thiền định. Pháp môn để giúp đến con đường bát chi thánh đạo là 37 phẩm trợ đạo.

Bát chính đạo

Đối với nhóm trí tuệ sẽ gồm có:

– Chính kiến: Sự hiểu biết chân chính về nhân quả, duyên khởi, các sự vật hiện tượng một cách khách quan, không chi phối bởi cảm xúc, cảm tính, hiểu rõ 4 chân lý về khổ và cách thoát khổ. Từ đó có những cách cư xử không làm khổ bản thân và mọi người xung quanh.

– Chính tư duy: Suy nghĩ đến việc từ bỏ chấp trước, ly tham, đoạn diệt, an tính, thắng trí và giác ngộ.

Đối với nhóm đạo đức:

– Chính ngữ: Nói lời chân chính, sự thật, đoàn kết, mang tính xây dựng, đem lại sự an vui cho người khác.

– Chính nghiệp: có nghĩa là hành vi chân chính nghĩa là không sát sinh, không trộm cắp, không ngoại tình. Nên thực hiện: chia sẻ cho những người kém may mắn hơn mình một cách hợp pháp, sống chung thủy một vợ một chồng, trọng thân.

– Chính mạng: Có nghề nghiệp chân chính để nuôi sống bản thân, không nên làm nghề đồ tể, không sản xuất, buôn bán chất độc, gây nghiện.

– Chính tinh tấn: Kiên trì làm những việc thiện, tiếp tục làm những việc thiện dự định làm, từ bỏ những việc bất thiện đang làm và dự định làm.

Đối với nhóm thiền định:

– Chính niệm: nghĩa là làm chủ trong các giác quan trong cách đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, thức, ngủ, làm chủ cảm xúc và thái độ sống…

– Chính định: có 4 tầng nấc thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền cùng với những phương pháp bổ trợ như tứ niệm xứ, quán hơi thở. Sau khi đạt nấc cao nhất sẽ dẫn tâm về Tam minh gồm: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh.

Khi chứng xong, hành giả giải thoát hoàn toàn đắc quả vị A-la-hán..

Ngoài ra, trong đạo Phật còn có khái niệm về nhân quả, luân hồi.

Nhân quả

Nhân quả chính là mọi sự việc đều là kết quả của nguyên nhân trước đó.

Nhân hay còn gọi là nghiệp, khi gieo nghiệp thì sẽ gặt quả. Từ nhân đến quả thì có yếu tố duyên. Nếu duyên có điều kiện thuận lợi thì thuận duyên, còn cản trở là nghịch duyên.

Tương tác về nhân quả khá phức tạp diễn ra liên tục hoặc song song gọi là trùng trùng duyên khởi.

Các nguyên nhân cùng loại nhưng trái chiều sẽ bù trừ cho nhau và cái nào mạnh hơn sẽ tạo ra kết quả.

Điều này có  nghĩa là nghiệp đã gieo có thể chuyển hóa được nếu gieo nhân mới đối lập với nhân cũ.

Quan hệ nhân quả là quy luật tự nhiên khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người. Dù con người có tin hay không thì quy luật vẫn vận hành và chi phối vạn vật.

Luân hồi

Luân hồi là quan hệ nhân quả xuyên suốt thời gian. Điều này chỉ ra rằng việc tâm thức trải qua nhiều kiếp sống.

Chết là hết 1 kiếp sống, còn tâm thức sẽ mang theo nghiệp đi tái sinh ở kiếp mới. Và hình thức có thể khác nhau cũng như sự chuyển đổi giữa các loài hoặc các thế giới như cõi súc sinh, cõi người, cõi a tu la, cõi trời. Quan hệ nhân quả sẽ tác động và chi phối cách thức luân hồi.

Còn luân hồi là còn khổ. Do vậy đạo Phật chỉ ra rằng chỉ có giác khổ thì mới thoát khỏi luân hồi nghĩa là biết cách đoạn diệt để không còn quan hệ nhân quả.

Ngoài ra, đạo Phật còn đưa ra những vấn đề như siêu hình học, nhận thức luận và thế giới quan để giúp mọi người hình dung rõ hơn về sự kết nối giữa vạn vật trong vũ trụ một cách khăng khít.

Giáo pháp

Giáo pháp của Phật giáo được tập hợp trong Tam tạng gồm:

Kinh tạng: là những bài giảng của chính Đức Phật hoặc các đại đệ tử của Ngài. Kinh tạng được chia làm 5 bộ: Trường bộ kinh, Trung bộ kinh, Tương ưng, bộ kinh, Tăng chi bộ kinh, Tiểu bộ kinh.

Luật tạng: Được ra đời chỉ vài mươi năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, là tạng sách cổ nhất, nội dung thể hiện lịch sử phát triển của Tăng – già và các giới luật của người xuất gia.

Luận tạng: Hình thành khá trễ, thể hiện các quan niệm đạo Phật về triết học và tâm lý học.

Những giáo lý của Phật giáo được thể hiện trong các luận điểm như:

Tứ Thánh đế (Tứ Diệu Đế):

Đây là tư tưởng căn bản, cốt lõi của Phật pháp.

Bốn chân lý giúp chúng ta nhận biết bản chất của sự khổ đau trong luân hồi, nguyên nhân và phương pháp giải trừ đau khổ.

Đức phật có dạy rằng cuộc đời có khổ đau (gọi gọi là khổ đế), có nguyên nhân (gọi là Tập đế), có thể dập tắt (gọi là Diệt đế), và con đường bát chánh đạo – Trung đạo sẽ giúp diệt khổ (gọi là Đạo đế).

Tứ đế thể hiện đầy đủ về quá trình nhận thức các loại khổ đau, nguyên nhân, trạng thái không còn khổ đau và con đường thoát khổ.

Và để thoát khổ được thì phải nhận thức đúng đắn về đau khổ. Đó là quan điểm triết học mang tính duy lý.

– Khổ đế: những khổ đau về: sinh lão, bệnh, tử; khổ tâm gồm: sống với người mình ghét, chia lìa người thân, những mong muốn mà không được như ý, chấp vào thân ngũ uẩn. Trước hết cần phải thừa nhận khổ đau, không nên trốn tránh, phớt lờ hay cường điệu hóa, nhận thức về khổ đau một cách toàn diện, sâu sắc.

– Tập đế: Chính là nguyên nhân của khổ đau bao gồm: tham ái, sân hận, si mê và chấp thủ. Khi tìm được đúng nguyên nhân đó trong luân hồi chuyển kiếp do vô minh và ái dục được chỉ rõ trong 12 nhân duyên.

– Diệt đế: Đó là trạng trái không còn khổ đau, là sự giải thoát tận cùng chân thực, đó là hạnh phúc khi chấm dứt sự vô minh hay dục vọng của con người.

– Đạo đế: Đây là chân lý con đường diệt khổ hay chính xác là phương pháp để diệt khổ gồm tám nhánh- bát chính đạo và xoay xung quanh ba trụ cột lớn  Trí tuệ- Đạo đức- Thiền định. Pháp môn để giúp đến con đường bát chi thánh đạo là 37 phẩm trợ đạo.

Bát chính đạo

Đối với nhóm trí tuệ sẽ gồm có:

– Chính kiến: Sự hiểu biết chân chính về nhân quả, duyên khởi, các sự vật hiện tượng một cách khách quan, không chi phối bởi cảm xúc, cảm tính, hiểu rõ 4 chân lý về khổ và cách thoát khổ. Từ đó có những cách cư xử không làm khổ bản thân và mọi người xung quanh.

– Chính tư duy: Suy nghĩ đến việc từ bỏ chấp trước, ly tham, đoạn diệt, an tính, thắng trí và giác ngộ.

Đối với nhóm đạo đức:

– Chính ngữ: Nói lời chân chính, sự thật, đoàn kết, mang tính xây dựng, đem lại sự an vui cho người khác.

– Chính nghiệp: có nghĩa là hành vi chân chính nghĩa là không sát sinh, không trộm cắp, không ngoại tình. Nên thực hiện: chia sẻ cho những người kém may mắn hơn mình một cách hợp pháp, sống chung thủy một vợ một chồng, trọng thân.

– Chính mạng: Có nghề nghiệp chân chính để nuôi sống bản thân, không nên làm nghề đồ tể, không sản xuất, buôn bán chất độc, gây nghiện.

– Chính tinh tấn: Kiên trì làm những việc thiện, tiếp tục làm những việc thiện dự định làm, từ bỏ những việc bất thiện đang làm và dự định làm.

Đối với nhóm thiền định:

– Chính niệm: nghĩa là làm chủ trong các giác quan trong cách đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, thức, ngủ, làm chủ cảm xúc và thái độ sống…

– Chính định: có 4 tầng nấc thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền cùng với những phương pháp bổ trợ như tứ niệm xứ, quán hơi thở. Sau khi đạt nấc cao nhất sẽ dẫn tâm về Tam minh gồm: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh.

Khi chứng xong, hành giả giải thoát hoàn toàn đắc quả vị A-la-hán..

Ngoài ra, trong đạo Phật còn có khái niệm về nhân quả, luân hồi.

Nhân quả

Nhân quả chính là mọi sự việc đều là kết quả của nguyên nhân trước đó.

Nhân hay còn gọi là nghiệp, khi gieo nghiệp thì sẽ gặt quả. Từ nhân đến quả thì có yếu tố duyên. Nếu duyên có điều kiện thuận lợi thì thuận duyên, còn cản trở là nghịch duyên.

Tương tác về nhân quả khá phức tạp diễn ra liên tục hoặc song song gọi là trùng trùng duyên khởi.

Các nguyên nhân cùng loại nhưng trái chiều sẽ bù trừ cho nhau và cái nào mạnh hơn sẽ tạo ra kết quả.

Điều này có  nghĩa là nghiệp đã gieo có thể chuyển hóa được nếu gieo nhân mới đối lập với nhân cũ.

Quan hệ nhân quả là quy luật tự nhiên khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người. Dù con người có tin hay không thì quy luật vẫn vận hành và chi phối vạn vật.

Luân hồi

Luân hồi là quan hệ nhân quả xuyên suốt thời gian. Điều này chỉ ra rằng việc tâm thức trải qua nhiều kiếp sống.

Chết là hết 1 kiếp sống, còn tâm thức sẽ mang theo nghiệp đi tái sinh ở kiếp mới. Và hình thức có thể khác nhau cũng như sự chuyển đổi giữa các loài hoặc các thế giới như cõi súc sinh, cõi người, cõi a tu la, cõi trời. Quan hệ nhân quả sẽ tác động và chi phối cách thức luân hồi.

Còn luân hồi là còn khổ. Do vậy đạo Phật chỉ ra rằng chỉ có giác khổ thì mới thoát khỏi luân hồi nghĩa là biết cách đoạn diệt để không còn quan hệ nhân quả.

Ngoài ra, đạo Phật còn đưa ra những vấn đề như siêu hình học, nhận thức luận và thế giới quan để giúp mọi người hình dung rõ hơn về sự kết nối giữa vạn vật trong vũ trụ một cách khăng khít.

Phật giáo

Nguồn gốc của Phật Giáo, lịch sử ra đời và phát triển của đạo Phật

Phật Giáo có bề dày lịch sử lâu đời và là một trong những đạo giáo có tầm ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới cả trong quá khứ lẫn hiện tại.

3054

Tính đến thời điểm này Đạo Phật đã truyền bá vào Việt Nam gần 2000 năm, cùng trải qua những biến cố thăng trầm trong lịch sử dân tộc, và có sức sống bền bỉ, gắn bó với nhịp sống của người dân Việt Nam.

Phật giáo Việt Nam hiện nay vừa giữ được những giáo lý căn bản của Đạo Phật ban đầu vừa có sự dung hòa phù hợp với văn hóa người Việt.

Để giúp cho người đọc hiểu rõ hơn về đạo Phật nói chung và Phật giáo ở Việt Nam nói riêng, Văn Hóa Tâm Linh xin cung cấp các thông tin qua bài viết dưới đây.

Nguồn gốc của Phật giáo

Phật giáo bắt nguồn từ đâu, ra đời vào năm nào? Đây là câu hỏi mà rất nhiều người thắc mắc.

Phật giáo hay Đạo Phật là một tôn giáo hay nói đúng hơn là hệ thống triết học gồm các giáo lý, tư tưởng triết học đầy đủ về nhân sinh quan, thế giới quan cùng phương pháp tu tập dựa trên lời dạy của nhân vật lịch sử có tên là Siddhartha Gautama dịch thuần Việt là Tất đạt đa Cồ-đàm.

Nguồn gốc của Phật Giáo, lịch sử ra đời và phát triển của đạo Phật
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Theo các tài liệu khảo cổ học đã chứng minh, Đạo Phật ra đời khoảng thế kỷ VI trước công nguyên ở vùng phía Tây Bắc Ấn do thái tử Siddhartha Gautama sáng lập hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

Ai là người sáng lập ra đạo Phật?

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người sáng lập ra đạo Phật. Câu chuyện về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, từ một thái tử có tên là Tất Đạt Đa đã từ bỏ ngai vàng giàu sang để tìm đến con đường tu đạo, đã trở thành giai thoại lưu truyền muôn đời.

Phụ Thân của ngài là Tịnh Phạn, mẫu thân ngài là Ma Gia. Câu chuyện về cuôc đời của Ngài từ lúc bắt đầu như đã gánh trên mình sứ mệnh khác thường. Ngài được thụ thai một cách thần kỳ, mẫu thân ngài nằm mơ thấy con voi trắng sáu ngà đi vào bên hông bà và lời tiên tri của nhà hiền triết A Tư Đà rằng đứa bé sinh ra sẽ là vị vua vĩ đại hoặc là một nhà hiền triết cao quý. Ngày ngài ra đời cũng là ngày mẫu thân ngài qua đời ngay trong vườn Lâm Tỳ Ni. Ngài bước đi bảy bước lúc đản sanh và nói “ ta đã đến nơi”.

Vì sinh ra trong hoàng tộc, ngài có một thời niên thiếu hoan lạc. Ngài lập gia đình với nàng Da Du Đà La và có một cậu con trai là La Hầu La. Tuy nhiên, cuộc sống hoang lạc kết thúc vào năm 29 tuổi, Ngài từ bỏ cuộc sống hiện tại và cả di sản của hoàng tộc để trở thành một người tầm đạo lang thang hành khất, đi tìm chân lý sống đích thực.

Lịch sử ra đời của Phật Giáo

Kể từ lúc Ngài Tất Đạt Đa khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giải thoát. Ngài đã dâng hiến toàn bộ thời gian của mình cho công cuộc hoằng hóa độ sanh. Ngài chu du khắp đất nước Ấn Độ xưa, từ cực Bắc dưới chân núi Himalaya, đến cực Nam bên ven sông Ganges (sông Hằng).

Trong quá trình lang thang tìm giá trị đích thực của hạnh phúc, của sự giải thoát, ngài đã suy nghĩ đến giáo lý giải thoát sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, ly dục, vô ngã mà Ngài đã chứng đắc.

Nguồn gốc của Phật Giáo, lịch sử ra đời và phát triển của đạo Phật-1
Truyền bá đạo Phật

Khi ngài cảm rõ những điều mà chúng sanh thì luôn chìm sâu vào ái dục, định kiến, chấp ngã,… Ngài trăn trở làm sao để con người dễ dàng chấp nhận và cảm thấu được giáo lý ấy? Bằng trí tuệ giác ngộ sâu sắc của mình, Đức Thế Tôn thực hiện ba lần thỉnh cầu và phát khởi thiện nguyện hộ trì giáo pháp của Phạm Thiên và gióng lên tiếng trống Pháp – bắt đầu thực hiện sứ mạng của mình.

Đây cũng là lúc ngài tuyên bố với bốn phương ba cõi rằng con đường cứu khổ, con đường dẫn đến cõi bất sanh bất diệt, cõi Niết Bàn đã được khai mở  “Cửa bất tử rộng mở, cho những ai chịu nghe…” và bánh xe Pháp bắt đầu chuyển vận. Phật Giáo ra đời từ đây và phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay.

Quá trình phát triển của đạo Phật

Mặc dù đạo Phật chưa bao giờ tổ chức các phong trào truyền giáo nhưng những giáo huấn của đức Phật lại được lan truyền xa rộng, ban đầu là trên tiểu lục địa Ấn Độ và rồi dần xuyên suốt cả Châu Á.

Khi đến với mỗi vùng đất mới, văn hóa mới, đạo Phật lại được thay đổi để phù hợp với tâm lý của người dân khu vực đó, nhưng hoàn toàn giữ lại bản chất, những điểm tinh túy về trí tuệ và lòng bi mẫn. Đạo Phật không có người đứng đầu như vui tôi, đại diện là những tăng ni tu sĩ, người được học và cảm thấu sâu sắc Phật Pháp, là vị lãnh tụ tinh thần cho những quý Phật tử, đạo hữu.

Đạo Phật có hai nhánh chính là Tiểu Thừa và Đại Thừa. Tiểu Thừa nhấn mạnh đến sự giải thoát cá nhân, trong khi Đại Thừa chú trọng đến việc tu tập thành một vị Phật toàn giác để phổ độ chúng sanh. Mỗi nhánh lại được chia làm nhiều phân nhánh. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn tồn tại ba hình thức chính là Tiểu thừa ở Đông Nam Á, và hai nhánh Đại thừa, đó là các truyền thống Phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng.

Sự lan rộng của đạo Phật ở hầu hết các nơi diễn ra một cách an hòa, theo nhiều cách. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã lập ra tiền lệ về việc chia sẻ những hiểu biết sâu sắc của mình cho những người  có lòng ham học hỏi, bất kể quốc gia, ngôn ngữ. Ngài hoàn toàn không kêu gọi người khác phải từ bỏ tôn giáo của mình hay cải đạo để theo đạo mới. Ngài chỉ cố gắng giúp mọi chúng sanh vượt qua những khổ đau của chính mình, thoát khỏi vô minh và hướng đến giải thoát. Có lẽ chính vì mục đích tốt đẹp đó mà đạo Phật đã ra đời và phát triển bền vững cho đến hôm nay và cả mai sau.

Tính đến thời điểm này Đạo Phật đã truyền bá vào Việt Nam gần 2000 năm, cùng trải qua những biến cố thăng trầm trong lịch sử dân tộc, và có sức sống bền bỉ, gắn bó với nhịp sống của người dân Việt Nam.

Phật giáo Việt Nam hiện nay vừa giữ được những giáo lý căn bản của Đạo Phật ban đầu vừa có sự dung hòa phù hợp với văn hóa người Việt.

Để giúp cho người đọc hiểu rõ hơn về đạo Phật nói chung và Phật giáo ở Việt Nam nói riêng, Văn Hóa Tâm Linh xin cung cấp các thông tin qua bài viết dưới đây.

Nguồn gốc của Phật giáo

Phật giáo bắt nguồn từ đâu, ra đời vào năm nào? Đây là câu hỏi mà rất nhiều người thắc mắc.

Phật giáo hay Đạo Phật là một tôn giáo hay nói đúng hơn là hệ thống triết học gồm các giáo lý, tư tưởng triết học đầy đủ về nhân sinh quan, thế giới quan cùng phương pháp tu tập dựa trên lời dạy của nhân vật lịch sử có tên là Siddhartha Gautama dịch thuần Việt là Tất đạt đa Cồ-đàm.

Nguồn gốc của Phật Giáo, lịch sử ra đời và phát triển của đạo Phật
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Theo các tài liệu khảo cổ học đã chứng minh, Đạo Phật ra đời khoảng thế kỷ VI trước công nguyên ở vùng phía Tây Bắc Ấn do thái tử Siddhartha Gautama sáng lập hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

Ai là người sáng lập ra đạo Phật?

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người sáng lập ra đạo Phật. Câu chuyện về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, từ một thái tử có tên là Tất Đạt Đa đã từ bỏ ngai vàng giàu sang để tìm đến con đường tu đạo, đã trở thành giai thoại lưu truyền muôn đời.

Phụ Thân của ngài là Tịnh Phạn, mẫu thân ngài là Ma Gia. Câu chuyện về cuôc đời của Ngài từ lúc bắt đầu như đã gánh trên mình sứ mệnh khác thường. Ngài được thụ thai một cách thần kỳ, mẫu thân ngài nằm mơ thấy con voi trắng sáu ngà đi vào bên hông bà và lời tiên tri của nhà hiền triết A Tư Đà rằng đứa bé sinh ra sẽ là vị vua vĩ đại hoặc là một nhà hiền triết cao quý. Ngày ngài ra đời cũng là ngày mẫu thân ngài qua đời ngay trong vườn Lâm Tỳ Ni. Ngài bước đi bảy bước lúc đản sanh và nói “ ta đã đến nơi”.

Vì sinh ra trong hoàng tộc, ngài có một thời niên thiếu hoan lạc. Ngài lập gia đình với nàng Da Du Đà La và có một cậu con trai là La Hầu La. Tuy nhiên, cuộc sống hoang lạc kết thúc vào năm 29 tuổi, Ngài từ bỏ cuộc sống hiện tại và cả di sản của hoàng tộc để trở thành một người tầm đạo lang thang hành khất, đi tìm chân lý sống đích thực.

Lịch sử ra đời của Phật Giáo

Kể từ lúc Ngài Tất Đạt Đa khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giải thoát. Ngài đã dâng hiến toàn bộ thời gian của mình cho công cuộc hoằng hóa độ sanh. Ngài chu du khắp đất nước Ấn Độ xưa, từ cực Bắc dưới chân núi Himalaya, đến cực Nam bên ven sông Ganges (sông Hằng).

Trong quá trình lang thang tìm giá trị đích thực của hạnh phúc, của sự giải thoát, ngài đã suy nghĩ đến giáo lý giải thoát sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, ly dục, vô ngã mà Ngài đã chứng đắc.

Nguồn gốc của Phật Giáo, lịch sử ra đời và phát triển của đạo Phật-1
Truyền bá đạo Phật

Khi ngài cảm rõ những điều mà chúng sanh thì luôn chìm sâu vào ái dục, định kiến, chấp ngã,… Ngài trăn trở làm sao để con người dễ dàng chấp nhận và cảm thấu được giáo lý ấy? Bằng trí tuệ giác ngộ sâu sắc của mình, Đức Thế Tôn thực hiện ba lần thỉnh cầu và phát khởi thiện nguyện hộ trì giáo pháp của Phạm Thiên và gióng lên tiếng trống Pháp – bắt đầu thực hiện sứ mạng của mình.

Đây cũng là lúc ngài tuyên bố với bốn phương ba cõi rằng con đường cứu khổ, con đường dẫn đến cõi bất sanh bất diệt, cõi Niết Bàn đã được khai mở  “Cửa bất tử rộng mở, cho những ai chịu nghe…” và bánh xe Pháp bắt đầu chuyển vận. Phật Giáo ra đời từ đây và phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay.

Quá trình phát triển của đạo Phật

Mặc dù đạo Phật chưa bao giờ tổ chức các phong trào truyền giáo nhưng những giáo huấn của đức Phật lại được lan truyền xa rộng, ban đầu là trên tiểu lục địa Ấn Độ và rồi dần xuyên suốt cả Châu Á.

Khi đến với mỗi vùng đất mới, văn hóa mới, đạo Phật lại được thay đổi để phù hợp với tâm lý của người dân khu vực đó, nhưng hoàn toàn giữ lại bản chất, những điểm tinh túy về trí tuệ và lòng bi mẫn. Đạo Phật không có người đứng đầu như vui tôi, đại diện là những tăng ni tu sĩ, người được học và cảm thấu sâu sắc Phật Pháp, là vị lãnh tụ tinh thần cho những quý Phật tử, đạo hữu.

Đạo Phật có hai nhánh chính là Tiểu Thừa và Đại Thừa. Tiểu Thừa nhấn mạnh đến sự giải thoát cá nhân, trong khi Đại Thừa chú trọng đến việc tu tập thành một vị Phật toàn giác để phổ độ chúng sanh. Mỗi nhánh lại được chia làm nhiều phân nhánh. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn tồn tại ba hình thức chính là Tiểu thừa ở Đông Nam Á, và hai nhánh Đại thừa, đó là các truyền thống Phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng.

Sự lan rộng của đạo Phật ở hầu hết các nơi diễn ra một cách an hòa, theo nhiều cách. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã lập ra tiền lệ về việc chia sẻ những hiểu biết sâu sắc của mình cho những người  có lòng ham học hỏi, bất kể quốc gia, ngôn ngữ. Ngài hoàn toàn không kêu gọi người khác phải từ bỏ tôn giáo của mình hay cải đạo để theo đạo mới. Ngài chỉ cố gắng giúp mọi chúng sanh vượt qua những khổ đau của chính mình, thoát khỏi vô minh và hướng đến giải thoát. Có lẽ chính vì mục đích tốt đẹp đó mà đạo Phật đã ra đời và phát triển bền vững cho đến hôm nay và cả mai sau.