Phật giáo

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương gồm 18 vị được tạc bằng gỗ với các hình dáng khác nhau. Mỗi pho tượng là một phong cách, cá tính riêng.

1776

Về số lượng Tổ Tây Thiên gắn với Tiểu thừa có 28 và tổ Đông Đô Độ gắn Đại thừa có 6, trong đó Bồ Đề Đạt Ma vừa là Tổ Tây Thiên cuối cùng vừa là Tổ Đông Độ đầu tiên, nên tất cả là 33 vị, nhưng chùa Tây Phương chỉ chọn ra 18 vị để tạc tượng bằng gỗ. Nhìn chung, các tượng đều được tạc theo một phong cách, cùng mặc áo cà sa như nhau, song nếp áo mỗi vị theo dáng ngồi, thế đứng mà tạo nếp và đường lượn khác nhau nhằm đề cao tâm đạo và trí tuệ.

Tượng có pho đứng, pho ngồi, có vươn lên, có dàn trải để gây được nhịp điệu. Dưới bàn tay của những nghệ nhân tài ba, tượng nào cũng sống động và thanh thoát. Theo tiểu sử từng vị Tổ, mỗi vị có một cá tính riêng, một cuộc sống riêng tư rất đời thường, có vui, có buồn, có đam mê, có vướng mắc, có hoan hỉ… do đó tượng các vị Tổ đều là sự điển hình hóa, tổng hòa những nét cá biệt theo cùng một hướng để nêu bật cả cái thực và cái thần của tượng.

Tượng Tổ thứ nhất (Ma Ha Ca Diếp tôn giả) và thứ hai (A Nan Đà tôn giả)

Tượng Tổ thứ nhất và thứ hai được bài trí trên Phật điện, cùng hàng với tượng Tuyết Sơn. 16 pho tượng Tổ còn lại được bài trí tại hai gian bên tả và hai gian bên hữu tòa sau cùng của chùa chính, gồm:

Tượng Tổ thứ 3: Thương Na Hòa Tu tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương
Thương Na Hòa Tu tôn giả

Các tài liệu từ trước đến nay đều vẽ ngài ngồi bên bàn đá hỏi chuyện Ưu Ba Cúc Đa với dáng tư lự của nhà hiền triết. Tượng Thương Na Hòa Tu ở chùa Tây Phương bám theo hình vẽ mẫu, ngồi chân thõng chân co nửa vời, một tay để trên đùi một tay thu trong bọc, mặc áo nhiều nếp để hở ngực gầy giơ cả xương sườn, đôi mắt sụp, miệng mím lại ít nói nhưng khuôn mặt luôn trăn trở biểu hiện một nội tâm dằn vặt. Tượng đơn mà như phía trước có ai đó để ngài quan sát và suy ngẫm.

Tượng Tổ thứ 4: Ưu Ba Cúc Đa tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-1
Ưu Ba Cúc Đa tôn giả

Trong các sách cổ, Tổ Ưu Ba Cúc Đa được vẽ đang chăm chú ngồi đọc sách, sách trên tay, sách dưới đất, có khi còn thêm mấy thẻ tre. Tượng ở chùa Tây Phương vẫn theo dáng ngồi trong hình vẽ nhưng nhấp nhổm trên gót chân trái quỳ gấp lại, còn chân phải gấp chống làm điểm tựa cho bàn tay cầm thẻ tre đánh dấu thành tích thuyết pháp. Tượng đầu to, trán cao, hói quá đỉnh biểu hiện sự thông minh, mắt tròn sáng mở to nhìn xa chăm chú, phối hợp với cái miệng há mở như đang thuyết giảng với sự cuốn hút đến thôi miên các đối tượng nghe. Mặt tượng với đôi lông mày to đậm, râu quai nón, tai dài, cánh mũi nở gây ấn tượng đậm ở người xem, các mảng khối trên thân mình cứ căng tròn biểu đạt sự sung mãn cả trí lực và trí tuệ. Là tượng đơn nhưng sự sống động của Tổ khiến chúng ta cảm nhận như có cả một quần thể phía trước.

Tượng Tổ thứ 5: Đề Đa Ca tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-2
Đề Đa Ca tôn giả

Trong các thư tịch xưa, có sách vẽ ngài đứng chắp tay thi lễ các đại tiên trên trời, có sách vẽ ngài ngồi ngước nhìn không trung. Tượng Đề Đa Ca ở chùa Tây Phương  trong thế ngồi thiền đang thi lễ, tất cả thể hiện trong khối đóng kín, đường viền rõ ràng, mảng khối óng ả, các nếp áo song hành, tất cả biểu thị sự sáng láng, song khuôn mặt lại đăm chiêu như chờ sự giải mộng, thu cuộc sống vào nội tâm.

Tượng Tổ thứ 6: Di Giá Ca tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-3
Di Giá Ca tôn giả

Trong các thư tịch cổ đều vẽ cảnh Di Giá Ca tiếp chuyện Bà Tu Mật, đứng hoặc ngồi, chắp hai tay lễ. Tượng Di Giá Ca ở chùa Tây Phương ở một tình huống khác. Ngài đứng chững chạc, một tay thu trong bọc, một tay bấm độn, khuôn mặt ngơ ngác muốn tìm hiểu điều gì đấy. Và như thế, người xem cảm nhận trước mặt ngài như có cảnh lạ hay ai đó đang đối thoại, dáng tượng tĩnh song nội tâm lại động rộn.

Tượng Tổ thứ 7: Bà Tu Mật tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-4
Bà Tu Mật tôn giả

Trong các thư tịch cổ đều thống nhất vẽ Bà Tu Mật đứng nghiêm, ngửa mặt nhìn trời, hai tay chắp lại đưa lên ngang mặt, phía trước là một bàn đá với đỉnh trầm. Tượng Bà Tu Mật ở chùa Tây Phương được tạc theo đúng hình mẫu trong các thư tịch cổ, tư thế đứng nghiêm, mặt hơi ngửa, miệng há vừa, chắp tay đưa lên biểu hiện động tác chào và cầu chúc theo lối nhà Phật với lời

“A Di Đà…Phật”. Tư thế nghiêm túc, ăn mặc chỉnh tề, đầu tóc có dây buộc, áo chảy rất sóng, cổ tay đeo vòng móc vào ống tay áo để khi chào không bị tụt, là Tổ duy nhất có răng vàng. Miêng đang há vừa phải và kéo dài để chuẩn bị khép với từ “Phật”. Rõ ràng trước tượng Bà Tu Mật, chúng ta cảm thấy có ai đó mà Tổ gặp và cầu chúc cho họ những lời tốt đẹp. Ở đây, ngoại hình chẳng những chuẩn mực còn giúp nội tâm trong sáng.

Tượng Tổ thứ 8: Phật Đà Nan Đề tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-5
Phật Đà Nan Đề tôn giả

Trong các thư tịch cổ đều thống nhất vẽ Tổ thứ 8 – Phật Đà Nan Đề người béo tốt, ngồi bệt tựa gốc cây, chân phải xếp bằng, chân trái chống nghiêng, tay trái để trên đùi, tay phải đang ngoày tai. Tổ mặc áo phanh ra hở cả ngực và bụng, quần dài tết gấu lại như đăng ten, cổ tay đeo vòng. Tượng Tổ thứ 8 ở chùa Tây Phương bày ở góc ngoài, phía bên phải tòa chùa trong, được bám sát hình trong sách “Thiền Uyển Kế Đăng Lục” tạo một khối căng tròn, óng ả, mặt hỉ hả, đôi mắt hỏm hỉnh, miệng cười dễ dãi, khuôn mặt sáng sủa, tất cả toán lên sự thông minh, mềm mỏng, dễ gần. Đây là pho tượng đặc biệt sống động, dù cái que bị mất vẫn luôn gợi động tác ngoáy tai, ngoài sự kích thích còn biểu hiện sự giao tiếp và ứng xử văn hóa uyên bác.

Tượng Tổ thứ 9: Phục Đà Mật Đa tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-6
Phục Đà Mật Đa tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 9 – Phục Đà Mật Đa ngồi tựa mỏm đá, tay phải chống cây tích trượng, đăm đăm nhìn xuống đất, bên cạnh là bàn thờ đá có đỉnh trầm đang đốt. Tượng Phục Đà Mật Đa ở chùa Tây Phương được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách xưa, cây tích trượng bị mất nhưng tư thế tay không thay đổi, chỉ thêm cuốn sách bên tay trái mà ánh mắt đang hướng tới. Miệng há mở phối hợp với ánh mắt đang khám phá ở trang sách những điều thú vị, gương mặt vừa hồ hởi lại vừa như ngơ ngác trước những mới lạ mà ở tuổi 50 mới được biết. Áo mặc hở nửa ngực, nhiểu nếp nhăn không cùng hướng cũng đều chứng tỏ nhân vật có nội tâm phức tạp.

Tượng Tổ thứ 10: Hiệp tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-7
Hiệp tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 10 – Hiệp tôn giả đứng tựa gốc cây nhìn xuống Phú Na Dạ Xà chắp tay thi lễ. Ở chùa Tây Phương, tượng Hiệp tôn giả được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách, nhưng nhấn mạnh da thịt phốp pháp mịn bóng của tuổi đời còn sung sức, mắt tròn sáng như nhìn xoáy tâm can các đối tượng, miệng mín xít ít nói, người giàu nghị lực. Làm đối trọng và cũng để tôn nhân vật là cây khô nhiều hốc. Khối tượng đứng chững chạc, các mảng căng mịn, cái thực điển hình là càng làm toát ra cái thần của nhân vật.

Tượng Tổ thứ 12: Mã Minh tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-8
Mã Minh tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 12 – Mã Minh tôn giả đang ngồi chống tay phải trên phiến đá, mặc áo trật vai xuống tận cánh tay để hở cả ngực và bụng, đầu hói quá đỉnh, râu quai nón, tai đeo vòng to, mặt hơi ngửa điềm tĩnh nhìn lên con rồng vùng vẫy trong mây và giơ móng vuốt ra đe dọa. Ở chùa Tây Phương, tượng Tổ Mã Minh tôn giả đặt ở cuối dãy hồi trái tòa chùa trong, tạc theo mẫu vẽ trong sách xưa, song có sáng tạo về chi tiết

Gắn con rồng với Tổ thành một khối, đưa nó xuống thấp ngang bệ ngồi và phú cho dáng vẻ hiền hòa để hợp tâm lý người Việt vốn coi rồng là con vật linh thiêng báo điềm lành. Tổ ngồi bình thản thả thõng chân phải và hơi co chân trái nhưng đều chạm đất, thân hơi ngả về phía sau và chống thẳng tay phải tạo thế vững vàng không mỏi, tay cái gấp vuông đưa ngang trước bụng và chỉ về con rồng. Đầu tượng tròn, cạo trọc càng nổi các khối căng đầy sức sống, tai dài chạm vai, mắt nhìn thẳng vào đối tượng cùng với miệng há biểu hiện đang tranh luận, mắt rất tươi, trên thân hình da dẻ căng óng khỏe mạnh. Tổ đầy vẻ tự tin, thông minh, điềm tĩnh, chan hòa với mọi người.

Tượng Tổ thứ 13: Ca Tỳ Ma La tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-9
Ca Tỳ Ma La tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 13 – Ca Tỳ Ma La tôn giả đang đi ở khu vực núi, bị con mãng xà quấn quanh người. Ở chùa Tây Phương, tượng Ca Tỳ Ma La được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách, nhưng ngài không tranh biện, đứng thẳng như từ đất moc lên bất chấp gió thổi các tà áo bay kéo đi, cũng bất chấp những mãng xà đe dọa, khuôn mặt bình thản và tự tin, đôi mắt sáng nhìn xa. Toàn thân Ca Tỳ Ma La tôn giả được tạc bởi các khối căng tròn, óng mượt, những gấp nếp của áo cũng buông xuôi và ngả bay cùng chiều với khối, hình tĩnh mà lại động, từ trong hình tượng vươn lên là cả một sự nung nấu, sôi động.

Tượng Tổ thứ 14: Long Thụ tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-10
Long Thụ tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 14 – Long Thụ tôn giả đang ngồi quán tưởng trên bông hoa sen, trên đầu nghĩ đến vầng trăng tròn sáng, dưới nước có rồng đội kinh. Ở chùa Tây Phương, tượng Long Thụ tôn giả được tạc ngồi trên đài sen cao 30cm , tất cả tạo thành một  khối chóp vững nhưng đáy lại là đường cong của tòa sen do đó sinh động, chao đảo. Vạt áo tượng rủ xuống hai bên tòa sen để tượng và bệ (toà sen) gắn bó thành một khối hoàn chỉnh. Tượng nhắm mắt, ngồi thiền quán tưởng, hình thức trang nghiêm tĩnh lặng, khoác áo cà sa để hở bộ ngực gầy, biểu hiện dáng vẻ nhà hiền triết tập trung suy tư, coi nhẹ đời thường. Tượng có đường viền rõ ràng, bố cục đăng đối hai nửa phải, trái, song ngắm nhìn kỹ lại thấy cứ nhạt nhòa để chỉ còn là hình chập chờn trong vầng sáng yếu. Bên cạnh tượng Long Thụ còn thêm hình con rồng đội một hộp kinh nhắc lại chuyện Đại Long cho kinh Hoa Nghiêm.

Tượng Tổ thứ 16: La Hầu La Đa tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-11
La Hầu La Đa tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 16 – La Hầu La Đa tôn giả đang ngồi tự nhiên trên phiến đá, hai ta tỳ cây gậy tích trượng để nhô người về đằng trước, bên cạnh có con hươu. Ở chùa Tây Phương, tượng La Hầu La Đa tôn giả được tạc theo mẫu trong các sách xưa, chỉ thay chi tiết tay phải để lên đùi. Là con vị trưởng giả, La Hầu La Đa y phục chỉnh tề, đầu chít khăn, vẻ mặt đăm chiêu, mắt nhìn xa xăm, miệng mím lại dù môi mỏng khéo nói, chiếc gậy giờ đây cầm hờ một tay biểu thị quyền uy chứ không phải làm điểm tỳ, các móng tay dài ăn chơi, áo nhiều nếp vặn vẹo cũng biểu thị nội tâm dằn vặt. Con hươu bên cạnh như gợi vườn lộc uyển về sự thuyết pháp của Tổ. Đây là một pho tượng rất thành công về ngoại hình gắn với một nội tâm phức tạp.

Tượng Tổ thứ 17: Tăng Già Nan Đề tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-12
Tăng Già Nan Đề tôn giả

Bám sát hành trạng của Tổ để tìm hành động điển hình, trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 17 – Tăng Già Nan Đề tôn giả đang ngồi nhập tịch bên sườn núi, sát mép sông.

Ở chùa Tây Phương, tượng Tăng Già Nan Đề tôn giả được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách xưa, toàn thân thu về một khối bó gọn trong tấm áo choàng từ cổ xuống đất với những nếp gấp chảy xuôi, phía trước chỉ để hở khối chân phải gấp nằm và chân trái gấp đứng, đầu tì lên hai bàn tay úp đè nhau trên đầu gối. Đầu tượng tròn, đỉnh đầu nhô lên như nhục kháo, tai rất dài đeo khuyên, mắt khép hờ, cánh mũi nở, miệng mỉm cười, khuôn mặt rạng rỡ. Cách ngồi nhập định của Tăng Già Nan Đề như ngồi chơi, không gò theo công thức tọa thiền. Bệ tượng gợi sóng nước, lại có một mặt thú như gợi thiên nhiên hoang sơ nơi Tổ nhập định. Khối tượng thu gọn, đường viền rõ ràng, các mảng lớn chảy xuôi gắn với mảng ngang hẹp càng làm cho toàn thể chững chạc. Đây là tác phẩm có bố cục rất gọn chặt.

Tượng Tổ thứ 18: Già Da Xá Đa tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-13
Già Da Xá Đa tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 18 – Già Da Xá Đa tôn giả đang đi theo chiều gió cuốn, tay trái cầm gương soi phía sau, tay phải gấp, vít cây gậy đeo cuốn kinh. Ở chùa Tây Phương, tượng Già Da Xá Đa tôn giả được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách xưa, ống tay áo và vạt áo thổi bay theo chiều gió mạnh về phía trước, song người vẫn đứng thẳng, chân như nhún và tay đong đưa. Mắt tượng hấp háy và miệng há như đang hỏi han, cánh mũi rộng, gò má đầy, tai dài, người đẫy chắc. Khối tượng cứ như nhấp nhô tiến dần về phía trước, cái thực và cái thần quyện vào nhau rất sống động.

Tượng Tổ thứ 19: Cưu Ma La Đa tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-14
Cưu Ma La Đa tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 19 – Cưu Ma La Đa tôn giả béo đẫy, ngồi ngả người thoải mái, tay phải cầm gậy tích trượng, tay trải để trên đùi. Ở chùa Tây Phương, tượng Cưu Ma La Đa tôn giả được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách xưa, song ở đây là người hồ hởi, lãng mạn, rất yêu đời, tay phải cầm đóa hoa thay cho cầm gậy. Khối tượng gồm toàn những mảng căng tròn, bóng láng, mặc áo phanh hở cả ngực và bụng để như phối hợp với mặt đều cười rung lên. Hình dáng tượng rất thực lại toát ra cái thần tươi vui, phát huy cao độ ngôn ngữ mảng khối.

Tượng Tổ thứ 20: Xà Dạ Đa tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-15
Xà Dạ Đa tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 20 – Xà Dạ Đa tôn giả khoác áo cà sa hở nửa lưng, ngồi hơi cúi, dướn dài cổ về trước, tay phải cầm cái que dài gãi lưng. Ở chùa Tây Phương, tượng Xà Dạ Đa được tạc theo hình mẫu vè trong sách song đặc tả các bộ phận cơ thể để nhấn mạnh cái ngứa đang hành hạ một cơ thể gầy yếu nhưng nội lực mạnh mẽ, biểu hiện ở đầu to, tròn, vầng trán thông minh. Mắt tượng nheo nheo cùng với miệng chúm lại, phối hợp với các nếp nhăn trên trán, đuôi mắt và khóe miệng vừa thể hiện tuổi cao, vừa biểu thị sự suy tư sâu sắc. Tượng có khuôn mặt dài và xương xương, cổ dướn với những hốc, ngực phơi đủ bộ xương sườn, bụng mướp với nhiều nếp da nhăn nheo đều cho thấy sự chính xác về giải phẫu cơ thể, sự dằn vặt về tâm lý và sự sâu sắc về trí tuệ. Đây là tác phẩm thành công về cuộc sống người lao động.

Đa số tượng Tổ Kế Đăng ở chùa Tây Phương đều được sơn thếp các tông màu chủ đạo là đỏ – đen và nâu – đỏ. Người xưa đã khéo léo lồng kết giữa điêu khắc với hội họa sơn mài để góp phần hình thành nên những pho tượng đầy sức sống.

Về số lượng Tổ Tây Thiên gắn với Tiểu thừa có 28 và tổ Đông Đô Độ gắn Đại thừa có 6, trong đó Bồ Đề Đạt Ma vừa là Tổ Tây Thiên cuối cùng vừa là Tổ Đông Độ đầu tiên, nên tất cả là 33 vị, nhưng chùa Tây Phương chỉ chọn ra 18 vị để tạc tượng bằng gỗ. Nhìn chung, các tượng đều được tạc theo một phong cách, cùng mặc áo cà sa như nhau, song nếp áo mỗi vị theo dáng ngồi, thế đứng mà tạo nếp và đường lượn khác nhau nhằm đề cao tâm đạo và trí tuệ.

Tượng có pho đứng, pho ngồi, có vươn lên, có dàn trải để gây được nhịp điệu. Dưới bàn tay của những nghệ nhân tài ba, tượng nào cũng sống động và thanh thoát. Theo tiểu sử từng vị Tổ, mỗi vị có một cá tính riêng, một cuộc sống riêng tư rất đời thường, có vui, có buồn, có đam mê, có vướng mắc, có hoan hỉ… do đó tượng các vị Tổ đều là sự điển hình hóa, tổng hòa những nét cá biệt theo cùng một hướng để nêu bật cả cái thực và cái thần của tượng.

Tượng Tổ thứ nhất (Ma Ha Ca Diếp tôn giả) và thứ hai (A Nan Đà tôn giả)

Tượng Tổ thứ nhất và thứ hai được bài trí trên Phật điện, cùng hàng với tượng Tuyết Sơn. 16 pho tượng Tổ còn lại được bài trí tại hai gian bên tả và hai gian bên hữu tòa sau cùng của chùa chính, gồm:

Tượng Tổ thứ 3: Thương Na Hòa Tu tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương
Thương Na Hòa Tu tôn giả

Các tài liệu từ trước đến nay đều vẽ ngài ngồi bên bàn đá hỏi chuyện Ưu Ba Cúc Đa với dáng tư lự của nhà hiền triết. Tượng Thương Na Hòa Tu ở chùa Tây Phương bám theo hình vẽ mẫu, ngồi chân thõng chân co nửa vời, một tay để trên đùi một tay thu trong bọc, mặc áo nhiều nếp để hở ngực gầy giơ cả xương sườn, đôi mắt sụp, miệng mím lại ít nói nhưng khuôn mặt luôn trăn trở biểu hiện một nội tâm dằn vặt. Tượng đơn mà như phía trước có ai đó để ngài quan sát và suy ngẫm.

Tượng Tổ thứ 4: Ưu Ba Cúc Đa tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-1
Ưu Ba Cúc Đa tôn giả

Trong các sách cổ, Tổ Ưu Ba Cúc Đa được vẽ đang chăm chú ngồi đọc sách, sách trên tay, sách dưới đất, có khi còn thêm mấy thẻ tre. Tượng ở chùa Tây Phương vẫn theo dáng ngồi trong hình vẽ nhưng nhấp nhổm trên gót chân trái quỳ gấp lại, còn chân phải gấp chống làm điểm tựa cho bàn tay cầm thẻ tre đánh dấu thành tích thuyết pháp. Tượng đầu to, trán cao, hói quá đỉnh biểu hiện sự thông minh, mắt tròn sáng mở to nhìn xa chăm chú, phối hợp với cái miệng há mở như đang thuyết giảng với sự cuốn hút đến thôi miên các đối tượng nghe. Mặt tượng với đôi lông mày to đậm, râu quai nón, tai dài, cánh mũi nở gây ấn tượng đậm ở người xem, các mảng khối trên thân mình cứ căng tròn biểu đạt sự sung mãn cả trí lực và trí tuệ. Là tượng đơn nhưng sự sống động của Tổ khiến chúng ta cảm nhận như có cả một quần thể phía trước.

Tượng Tổ thứ 5: Đề Đa Ca tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-2
Đề Đa Ca tôn giả

Trong các thư tịch xưa, có sách vẽ ngài đứng chắp tay thi lễ các đại tiên trên trời, có sách vẽ ngài ngồi ngước nhìn không trung. Tượng Đề Đa Ca ở chùa Tây Phương  trong thế ngồi thiền đang thi lễ, tất cả thể hiện trong khối đóng kín, đường viền rõ ràng, mảng khối óng ả, các nếp áo song hành, tất cả biểu thị sự sáng láng, song khuôn mặt lại đăm chiêu như chờ sự giải mộng, thu cuộc sống vào nội tâm.

Tượng Tổ thứ 6: Di Giá Ca tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-3
Di Giá Ca tôn giả

Trong các thư tịch cổ đều vẽ cảnh Di Giá Ca tiếp chuyện Bà Tu Mật, đứng hoặc ngồi, chắp hai tay lễ. Tượng Di Giá Ca ở chùa Tây Phương ở một tình huống khác. Ngài đứng chững chạc, một tay thu trong bọc, một tay bấm độn, khuôn mặt ngơ ngác muốn tìm hiểu điều gì đấy. Và như thế, người xem cảm nhận trước mặt ngài như có cảnh lạ hay ai đó đang đối thoại, dáng tượng tĩnh song nội tâm lại động rộn.

Tượng Tổ thứ 7: Bà Tu Mật tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-4
Bà Tu Mật tôn giả

Trong các thư tịch cổ đều thống nhất vẽ Bà Tu Mật đứng nghiêm, ngửa mặt nhìn trời, hai tay chắp lại đưa lên ngang mặt, phía trước là một bàn đá với đỉnh trầm. Tượng Bà Tu Mật ở chùa Tây Phương được tạc theo đúng hình mẫu trong các thư tịch cổ, tư thế đứng nghiêm, mặt hơi ngửa, miệng há vừa, chắp tay đưa lên biểu hiện động tác chào và cầu chúc theo lối nhà Phật với lời

“A Di Đà…Phật”. Tư thế nghiêm túc, ăn mặc chỉnh tề, đầu tóc có dây buộc, áo chảy rất sóng, cổ tay đeo vòng móc vào ống tay áo để khi chào không bị tụt, là Tổ duy nhất có răng vàng. Miêng đang há vừa phải và kéo dài để chuẩn bị khép với từ “Phật”. Rõ ràng trước tượng Bà Tu Mật, chúng ta cảm thấy có ai đó mà Tổ gặp và cầu chúc cho họ những lời tốt đẹp. Ở đây, ngoại hình chẳng những chuẩn mực còn giúp nội tâm trong sáng.

Tượng Tổ thứ 8: Phật Đà Nan Đề tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-5
Phật Đà Nan Đề tôn giả

Trong các thư tịch cổ đều thống nhất vẽ Tổ thứ 8 – Phật Đà Nan Đề người béo tốt, ngồi bệt tựa gốc cây, chân phải xếp bằng, chân trái chống nghiêng, tay trái để trên đùi, tay phải đang ngoày tai. Tổ mặc áo phanh ra hở cả ngực và bụng, quần dài tết gấu lại như đăng ten, cổ tay đeo vòng. Tượng Tổ thứ 8 ở chùa Tây Phương bày ở góc ngoài, phía bên phải tòa chùa trong, được bám sát hình trong sách “Thiền Uyển Kế Đăng Lục” tạo một khối căng tròn, óng ả, mặt hỉ hả, đôi mắt hỏm hỉnh, miệng cười dễ dãi, khuôn mặt sáng sủa, tất cả toán lên sự thông minh, mềm mỏng, dễ gần. Đây là pho tượng đặc biệt sống động, dù cái que bị mất vẫn luôn gợi động tác ngoáy tai, ngoài sự kích thích còn biểu hiện sự giao tiếp và ứng xử văn hóa uyên bác.

Tượng Tổ thứ 9: Phục Đà Mật Đa tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-6
Phục Đà Mật Đa tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 9 – Phục Đà Mật Đa ngồi tựa mỏm đá, tay phải chống cây tích trượng, đăm đăm nhìn xuống đất, bên cạnh là bàn thờ đá có đỉnh trầm đang đốt. Tượng Phục Đà Mật Đa ở chùa Tây Phương được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách xưa, cây tích trượng bị mất nhưng tư thế tay không thay đổi, chỉ thêm cuốn sách bên tay trái mà ánh mắt đang hướng tới. Miệng há mở phối hợp với ánh mắt đang khám phá ở trang sách những điều thú vị, gương mặt vừa hồ hởi lại vừa như ngơ ngác trước những mới lạ mà ở tuổi 50 mới được biết. Áo mặc hở nửa ngực, nhiểu nếp nhăn không cùng hướng cũng đều chứng tỏ nhân vật có nội tâm phức tạp.

Tượng Tổ thứ 10: Hiệp tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-7
Hiệp tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 10 – Hiệp tôn giả đứng tựa gốc cây nhìn xuống Phú Na Dạ Xà chắp tay thi lễ. Ở chùa Tây Phương, tượng Hiệp tôn giả được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách, nhưng nhấn mạnh da thịt phốp pháp mịn bóng của tuổi đời còn sung sức, mắt tròn sáng như nhìn xoáy tâm can các đối tượng, miệng mín xít ít nói, người giàu nghị lực. Làm đối trọng và cũng để tôn nhân vật là cây khô nhiều hốc. Khối tượng đứng chững chạc, các mảng căng mịn, cái thực điển hình là càng làm toát ra cái thần của nhân vật.

Tượng Tổ thứ 12: Mã Minh tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-8
Mã Minh tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 12 – Mã Minh tôn giả đang ngồi chống tay phải trên phiến đá, mặc áo trật vai xuống tận cánh tay để hở cả ngực và bụng, đầu hói quá đỉnh, râu quai nón, tai đeo vòng to, mặt hơi ngửa điềm tĩnh nhìn lên con rồng vùng vẫy trong mây và giơ móng vuốt ra đe dọa. Ở chùa Tây Phương, tượng Tổ Mã Minh tôn giả đặt ở cuối dãy hồi trái tòa chùa trong, tạc theo mẫu vẽ trong sách xưa, song có sáng tạo về chi tiết

Gắn con rồng với Tổ thành một khối, đưa nó xuống thấp ngang bệ ngồi và phú cho dáng vẻ hiền hòa để hợp tâm lý người Việt vốn coi rồng là con vật linh thiêng báo điềm lành. Tổ ngồi bình thản thả thõng chân phải và hơi co chân trái nhưng đều chạm đất, thân hơi ngả về phía sau và chống thẳng tay phải tạo thế vững vàng không mỏi, tay cái gấp vuông đưa ngang trước bụng và chỉ về con rồng. Đầu tượng tròn, cạo trọc càng nổi các khối căng đầy sức sống, tai dài chạm vai, mắt nhìn thẳng vào đối tượng cùng với miệng há biểu hiện đang tranh luận, mắt rất tươi, trên thân hình da dẻ căng óng khỏe mạnh. Tổ đầy vẻ tự tin, thông minh, điềm tĩnh, chan hòa với mọi người.

Tượng Tổ thứ 13: Ca Tỳ Ma La tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-9
Ca Tỳ Ma La tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 13 – Ca Tỳ Ma La tôn giả đang đi ở khu vực núi, bị con mãng xà quấn quanh người. Ở chùa Tây Phương, tượng Ca Tỳ Ma La được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách, nhưng ngài không tranh biện, đứng thẳng như từ đất moc lên bất chấp gió thổi các tà áo bay kéo đi, cũng bất chấp những mãng xà đe dọa, khuôn mặt bình thản và tự tin, đôi mắt sáng nhìn xa. Toàn thân Ca Tỳ Ma La tôn giả được tạc bởi các khối căng tròn, óng mượt, những gấp nếp của áo cũng buông xuôi và ngả bay cùng chiều với khối, hình tĩnh mà lại động, từ trong hình tượng vươn lên là cả một sự nung nấu, sôi động.

Tượng Tổ thứ 14: Long Thụ tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-10
Long Thụ tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 14 – Long Thụ tôn giả đang ngồi quán tưởng trên bông hoa sen, trên đầu nghĩ đến vầng trăng tròn sáng, dưới nước có rồng đội kinh. Ở chùa Tây Phương, tượng Long Thụ tôn giả được tạc ngồi trên đài sen cao 30cm , tất cả tạo thành một  khối chóp vững nhưng đáy lại là đường cong của tòa sen do đó sinh động, chao đảo. Vạt áo tượng rủ xuống hai bên tòa sen để tượng và bệ (toà sen) gắn bó thành một khối hoàn chỉnh. Tượng nhắm mắt, ngồi thiền quán tưởng, hình thức trang nghiêm tĩnh lặng, khoác áo cà sa để hở bộ ngực gầy, biểu hiện dáng vẻ nhà hiền triết tập trung suy tư, coi nhẹ đời thường. Tượng có đường viền rõ ràng, bố cục đăng đối hai nửa phải, trái, song ngắm nhìn kỹ lại thấy cứ nhạt nhòa để chỉ còn là hình chập chờn trong vầng sáng yếu. Bên cạnh tượng Long Thụ còn thêm hình con rồng đội một hộp kinh nhắc lại chuyện Đại Long cho kinh Hoa Nghiêm.

Tượng Tổ thứ 16: La Hầu La Đa tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-11
La Hầu La Đa tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 16 – La Hầu La Đa tôn giả đang ngồi tự nhiên trên phiến đá, hai ta tỳ cây gậy tích trượng để nhô người về đằng trước, bên cạnh có con hươu. Ở chùa Tây Phương, tượng La Hầu La Đa tôn giả được tạc theo mẫu trong các sách xưa, chỉ thay chi tiết tay phải để lên đùi. Là con vị trưởng giả, La Hầu La Đa y phục chỉnh tề, đầu chít khăn, vẻ mặt đăm chiêu, mắt nhìn xa xăm, miệng mím lại dù môi mỏng khéo nói, chiếc gậy giờ đây cầm hờ một tay biểu thị quyền uy chứ không phải làm điểm tỳ, các móng tay dài ăn chơi, áo nhiều nếp vặn vẹo cũng biểu thị nội tâm dằn vặt. Con hươu bên cạnh như gợi vườn lộc uyển về sự thuyết pháp của Tổ. Đây là một pho tượng rất thành công về ngoại hình gắn với một nội tâm phức tạp.

Tượng Tổ thứ 17: Tăng Già Nan Đề tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-12
Tăng Già Nan Đề tôn giả

Bám sát hành trạng của Tổ để tìm hành động điển hình, trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 17 – Tăng Già Nan Đề tôn giả đang ngồi nhập tịch bên sườn núi, sát mép sông.

Ở chùa Tây Phương, tượng Tăng Già Nan Đề tôn giả được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách xưa, toàn thân thu về một khối bó gọn trong tấm áo choàng từ cổ xuống đất với những nếp gấp chảy xuôi, phía trước chỉ để hở khối chân phải gấp nằm và chân trái gấp đứng, đầu tì lên hai bàn tay úp đè nhau trên đầu gối. Đầu tượng tròn, đỉnh đầu nhô lên như nhục kháo, tai rất dài đeo khuyên, mắt khép hờ, cánh mũi nở, miệng mỉm cười, khuôn mặt rạng rỡ. Cách ngồi nhập định của Tăng Già Nan Đề như ngồi chơi, không gò theo công thức tọa thiền. Bệ tượng gợi sóng nước, lại có một mặt thú như gợi thiên nhiên hoang sơ nơi Tổ nhập định. Khối tượng thu gọn, đường viền rõ ràng, các mảng lớn chảy xuôi gắn với mảng ngang hẹp càng làm cho toàn thể chững chạc. Đây là tác phẩm có bố cục rất gọn chặt.

Tượng Tổ thứ 18: Già Da Xá Đa tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-13
Già Da Xá Đa tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 18 – Già Da Xá Đa tôn giả đang đi theo chiều gió cuốn, tay trái cầm gương soi phía sau, tay phải gấp, vít cây gậy đeo cuốn kinh. Ở chùa Tây Phương, tượng Già Da Xá Đa tôn giả được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách xưa, ống tay áo và vạt áo thổi bay theo chiều gió mạnh về phía trước, song người vẫn đứng thẳng, chân như nhún và tay đong đưa. Mắt tượng hấp háy và miệng há như đang hỏi han, cánh mũi rộng, gò má đầy, tai dài, người đẫy chắc. Khối tượng cứ như nhấp nhô tiến dần về phía trước, cái thực và cái thần quyện vào nhau rất sống động.

Tượng Tổ thứ 19: Cưu Ma La Đa tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-14
Cưu Ma La Đa tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 19 – Cưu Ma La Đa tôn giả béo đẫy, ngồi ngả người thoải mái, tay phải cầm gậy tích trượng, tay trải để trên đùi. Ở chùa Tây Phương, tượng Cưu Ma La Đa tôn giả được tạc theo hình mẫu vẽ trong sách xưa, song ở đây là người hồ hởi, lãng mạn, rất yêu đời, tay phải cầm đóa hoa thay cho cầm gậy. Khối tượng gồm toàn những mảng căng tròn, bóng láng, mặc áo phanh hở cả ngực và bụng để như phối hợp với mặt đều cười rung lên. Hình dáng tượng rất thực lại toát ra cái thần tươi vui, phát huy cao độ ngôn ngữ mảng khối.

Tượng Tổ thứ 20: Xà Dạ Đa tôn giả

Tượng tổ kế đăng ở chùa Tây Phương-15
Xà Dạ Đa tôn giả

Trong các thư tịch cổ liên quan đều thống nhất vẽ Tổ thứ 20 – Xà Dạ Đa tôn giả khoác áo cà sa hở nửa lưng, ngồi hơi cúi, dướn dài cổ về trước, tay phải cầm cái que dài gãi lưng. Ở chùa Tây Phương, tượng Xà Dạ Đa được tạc theo hình mẫu vè trong sách song đặc tả các bộ phận cơ thể để nhấn mạnh cái ngứa đang hành hạ một cơ thể gầy yếu nhưng nội lực mạnh mẽ, biểu hiện ở đầu to, tròn, vầng trán thông minh. Mắt tượng nheo nheo cùng với miệng chúm lại, phối hợp với các nếp nhăn trên trán, đuôi mắt và khóe miệng vừa thể hiện tuổi cao, vừa biểu thị sự suy tư sâu sắc. Tượng có khuôn mặt dài và xương xương, cổ dướn với những hốc, ngực phơi đủ bộ xương sườn, bụng mướp với nhiều nếp da nhăn nheo đều cho thấy sự chính xác về giải phẫu cơ thể, sự dằn vặt về tâm lý và sự sâu sắc về trí tuệ. Đây là tác phẩm thành công về cuộc sống người lao động.

Đa số tượng Tổ Kế Đăng ở chùa Tây Phương đều được sơn thếp các tông màu chủ đạo là đỏ – đen và nâu – đỏ. Người xưa đã khéo léo lồng kết giữa điêu khắc với hội họa sơn mài để góp phần hình thành nên những pho tượng đầy sức sống.

Phật giáo

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương

Tượng Hộ pháp ở chùa Tây Phương gồm tượng Thái tử Kỳ Đà và tượng Bát Bộ Kim Cương có vai trò gì trong kiến trúc của chùa?

2146

Hộ pháp là sự ủng hộ chính pháp của Phật và Bồ Tát. Lực lượng ấy, trên từ Phạm Thiên, Đế Thích, Bát bộ quỷ thần, dưới thì từ vua chúa cho tới các người dân đều là người bảo hộ Phật pháp và được gọi là Hộ pháp.

Thành công nổi trội về nghệ thuật của bộ tượng Hộ Pháp chính là tượng Thái tử Kỳ Đà và tám pho tượng Bát bộ Kim Cương ở chùa Tây Phương.

Tượng Thái tử Kỳ Đà

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương
Tượng Thái tử Kỳ Đà

Tượng Bát Bộ Kim Cương

Kim Cương là lực sĩ thiên thần, cầm chày kim cương hoặc một thứ vũ khí rắn, đem thần lực để hộ trì Phật pháp, tay kia đặt ở thế quyền. Ở chùa Tây Phương, Tượng Kim Cương gồm 8 pho (Thanh Trừ Tai, Tích Độc Thần, Hoàng Tùy Cầu, Bạch Tịnh Thủy, Xích Thanh Hỏa, Định Trừ Tai, Tử Hiền Thần và Đại Lực Thần). Cả tám vị đều là võ tướng, đứng trên mây, kích thước tương tự nhau. Bản thân tên Kim Cương đã thể hiện tính chất cứng rắn không thể phá vỡ, là vật báu quý nhất và là thứ vũ khí tốt nhất.

Các tượng Kim Cương đều có đầu tượng đội mũ Kim Khôi, mình mặc áo giáp có những biểu tượng gắn với tinh tú, sấm chớp như uy lực của vũ trụ. Áo giáp này còn được gọi là áo giáp Nhẫn Nhục để giữ cho thân tâm trong sáng, kiên trì bảo hộ Phật pháp, vững vàng như kim cương, nên được gọi là Kim Cương.

Tượng có kích thước cao lớn hơn hẳn người thực, ngoài hình cân đối, không những phù hợp với giải phẫu cơ thể mà còn toát ra nội tâm cương nghị mà nhân hậu, áo giáp bó sát thân song ống tay, mép tà áo và dải lụa lại rất bay và mềm mại rõ chất vải lụa, phong cách nghệ thuật này chỉ thấy ở thời Tây Sơn, trước đó chưa có.

Dưới đây là hình ảnh của 8 vị Kim Cương:

Tượng Kim Cương Thanh Trừ Tai

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-1
Tượng Kim Cương Thanh Trừ Tai

Tượng Kim Cương Tích Độc Thần

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-2
Tượng Kim Cương Tích Độc Thần

Tượng Kim Cương Hoàng Tùy Cầu

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-3
Tượng Kim Cương Hoàng Tùy Cầu

Tượng Kim Cương Bạch Tịnh Thủy

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-4
Tượng Kim Cương Bạch Tịnh Thủy

Tượng Kim Cương Xích Thanh Hỏa

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-5
Tượng Kim Cương Xích Thanh Hỏa

Tượng Kim Cương Định Trừ Tai

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-6
Tượng Kim Cương Định Trừ Tai

Tượng Kim Cương Tử Hiền Thần

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-7
Tượng Kim Cương Tử Hiền Thần

Tượng Kim Cương Đại Lực Thần

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-8
Tượng Kim Cương Đại Lực Thần

Hộ pháp là sự ủng hộ chính pháp của Phật và Bồ Tát. Lực lượng ấy, trên từ Phạm Thiên, Đế Thích, Bát bộ quỷ thần, dưới thì từ vua chúa cho tới các người dân đều là người bảo hộ Phật pháp và được gọi là Hộ pháp.

Thành công nổi trội về nghệ thuật của bộ tượng Hộ Pháp chính là tượng Thái tử Kỳ Đà và tám pho tượng Bát bộ Kim Cương ở chùa Tây Phương.

Tượng Thái tử Kỳ Đà

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương
Tượng Thái tử Kỳ Đà

Tượng Bát Bộ Kim Cương

Kim Cương là lực sĩ thiên thần, cầm chày kim cương hoặc một thứ vũ khí rắn, đem thần lực để hộ trì Phật pháp, tay kia đặt ở thế quyền. Ở chùa Tây Phương, Tượng Kim Cương gồm 8 pho (Thanh Trừ Tai, Tích Độc Thần, Hoàng Tùy Cầu, Bạch Tịnh Thủy, Xích Thanh Hỏa, Định Trừ Tai, Tử Hiền Thần và Đại Lực Thần). Cả tám vị đều là võ tướng, đứng trên mây, kích thước tương tự nhau. Bản thân tên Kim Cương đã thể hiện tính chất cứng rắn không thể phá vỡ, là vật báu quý nhất và là thứ vũ khí tốt nhất.

Các tượng Kim Cương đều có đầu tượng đội mũ Kim Khôi, mình mặc áo giáp có những biểu tượng gắn với tinh tú, sấm chớp như uy lực của vũ trụ. Áo giáp này còn được gọi là áo giáp Nhẫn Nhục để giữ cho thân tâm trong sáng, kiên trì bảo hộ Phật pháp, vững vàng như kim cương, nên được gọi là Kim Cương.

Tượng có kích thước cao lớn hơn hẳn người thực, ngoài hình cân đối, không những phù hợp với giải phẫu cơ thể mà còn toát ra nội tâm cương nghị mà nhân hậu, áo giáp bó sát thân song ống tay, mép tà áo và dải lụa lại rất bay và mềm mại rõ chất vải lụa, phong cách nghệ thuật này chỉ thấy ở thời Tây Sơn, trước đó chưa có.

Dưới đây là hình ảnh của 8 vị Kim Cương:

Tượng Kim Cương Thanh Trừ Tai

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-1
Tượng Kim Cương Thanh Trừ Tai

Tượng Kim Cương Tích Độc Thần

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-2
Tượng Kim Cương Tích Độc Thần

Tượng Kim Cương Hoàng Tùy Cầu

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-3
Tượng Kim Cương Hoàng Tùy Cầu

Tượng Kim Cương Bạch Tịnh Thủy

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-4
Tượng Kim Cương Bạch Tịnh Thủy

Tượng Kim Cương Xích Thanh Hỏa

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-5
Tượng Kim Cương Xích Thanh Hỏa

Tượng Kim Cương Định Trừ Tai

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-6
Tượng Kim Cương Định Trừ Tai

Tượng Kim Cương Tử Hiền Thần

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-7
Tượng Kim Cương Tử Hiền Thần

Tượng Kim Cương Đại Lực Thần

Tượng Hộ pháp (Tượng Thái tử Kỳ Đà và Bát Bộ Kim Cương) ở chùa Tây Phương-8
Tượng Kim Cương Đại Lực Thần
Phật giáo

Tượng Tuyết Sơn và bộ tượng Di Lặc Tam Tôn ở chùa Tây Phương

Tượng Tuyết Sơn và bộ tượng Di Lặc tam tôn (gồm có tượng Di Lặc, tượng Pháp Hoa Lâm Bồ Tát và Đại Diệu Tường Bồ Tát) được bài trí trong phật điện của chùa.

1827

Tượng Tuyết Sơn và bộ tượng Di Lặc tam tôn (gồm có tượng Di Lặc, tượng Pháp Hoa Lâm Bồ Tát và Đại Diệu Tường Bồ Tát) được bài trí trong phật điện của chùa.

Tượng Tuyết Sơn

Tượng Tuyết Sơn và bộ tượng Di Lặc Tam Tôn ở chùa Tây Phương-1
Tượng Tuyết Sơn

chùa Tây Phương, đức Thích Ca thành đạo được thay bằng tượng Tuyết Sơn, tức Thích Ca đang tu khổ hạnh trên núi cao, chưa đạt được sự giác ngộ. Tuyết Sơn chưa thành Phật, chưa có nhục kháo, không ngồi trên tòa sen. Các nhà điêu khắc xưa đã tạc tượng Tuyết Sơn mang hình chân dung một ông già quê ngồi nhàn tản, chân khoanh, chân chống, tay tì tự nhiên trên gối, đầu hơi nhô về trước, khuôn mặt nhân hậu, dáng trầm ngâm. Toàn thể thu về một khối tĩnh lặng, nhưng với khối đầu tròn căng mà má hóp, hốc mắt sâu, cổ ngẳng, ngực và tay nhô đủ bộ xương, các mạch máu hằn nổi rõ lại toát ra sự sôi động ngầm bên trong. Cùng với các khối lõm trên thân là chủ đạo, vạt áo với nhiều nếp nhăn vặn cũng toát lên một nội tâm đau khổ, dằn vặt, không lối thoát. Đây là pho tượng duy nhất sơn toàn thân một màu đen ánh nâu, tạo bóng tối cũng gợi cái chết hình thức bao trùm cái sống thuộc bản thể. Phong cách tạc tượng ở đây, với lối tả thực trên cơ sở nắm vững khoa học giải phẫu và đi sâu vào tâm lý nhân vật, tượng Tuyết Sơn mang đậm chất chân dung “giống và sống”, chỉ có thể là sản phẩm nghệ thuật của thời Tây Sơn hiển hách và sôi động.

Tượng Di Lặc

Tượng Tuyết Sơn và bộ tượng Di Lặc Tam Tôn ở chùa Tây Phương-2
Tượng Di Lặc

Di Lặc là một trong tám vị Đại Bồ Tát, nhưng đã được đức Phật hiện tại báo trước ngài sẽ thành Phật trong tương lai. Khi nào “Di Lặc xuất thế, thiên hạ thái bình” nên hình tượng ngài được nghệ sĩ xây dựng bằng niềm hy vọng và sự trông chờ: Con người béo tốt, đẫy đà, toàn thân cười hỉ hả, khuôn mặt rạng rỡ… có nghĩa đầy đủ cả về vật chất và tin thần, không còn đòi hỏi gì hơn. Với tinh thần đó, tượng được xây dựng bằng những khối căng tròn, thân hình phốp pháp, ngồi khoanh chân chống ngả đằng sau rất thoải mái, tay phải để úp nhẹ trên đùi, tay trái tì khuỷu lên chiếc gối hậu thiên phồng to, áo mặc mở phanh, hở cả ngực và bụng. Tham gia vào tạo hình cùng với khối còn có những đường cong dường như song hành ở ngấn bụng, ở cổ tay áo, ở gấu quần càng làm tăng sự chuyển động ngầm trong một khối đóng kín tĩnh. Toàn thân tượng được sơn màu xanh xám như đồng càng chắc nịch. Từ pho tương này luôn toát ra cái sinh khí của thời đại Tây Sơn đầy những tự hào. Đây là pho tượng Di Lặc thuộc loại sơm nhất hiện còn, là hình mẫu cho nhiều tượng cùng tính chất ở thời Nguyễn phỏng theo. Phong cách tạc tượng ở đây đã kết hợp được sự tinh tế của nghệ thuật với sự chuẩn xác của giải phẫu và tâm sinh lý thuộc khoa học thời Tây Sơn (thế kỷ XVIII).

Tượng Pháp Hoa Lâm Bồ Tát (Phổ Hiền Bồ Tát)

Tượng Tuyết Sơn và bộ tượng Di Lặc Tam Tôn ở chùa Tây Phương-3
Tượng Phổ Hiền Bồ Tát

Tượng Bồ tát Pháp Hoa Lâm được tạc ở tư thế đứng thẳng trên bệ hình chữ nhật giật cấp. Hai tay tượng chắp trước ngực theo thế kết ấn “liên hoa hợp chưởng”: Duỗi thẳng mười ngón tay rồi chắp lại như bông sen hé nở. Kiểu ấn này là tay người khi còn ở bào thai, dó đó có tên là ấn Bản Tam – muội – da, biểu thị sự bất nhị, không chia hai của lý trí. Khi con người ra đời thì hai tay tách ra và nắm bàn tay lại tạo ra vô số nghiệp. Tượng có khuôn mặt trẻ dáng trầm ngâm, mắt hơi khép, mày cong, má mịn, miệng mím tự nhiên, môi đỏ, tai chảy dài, cổ cao có ngấn. Tượng tạc trong thế đứng yên mà như nhích bước nhẹ nhàng, áo cà sa nhiều lớp, dài trùm chân với những nếp gấp chảy rất sóng, càng làm cho tượng chững chạc, vươn cao. Bệ tượng bổ ô ở bốn mặt cạnh, chạm nổi hình hoa lá cách điệu, diềm hình khánh, chạm nổi hình dây lá cách điệu, bốn chân chạm kiểu chân quỳ dạ cá. Phong cách tạc tượng ở đây đã kết hợp được sự tinh tế của nghệ thuật với sự chuẩn xác của giải phẫu và tâm sinh lý thuộc khoa học thời Tây Sơn (thế kỷ XVIII).

Tượng Đại Diệu Tường Bồ Tát (Văn Thù Bồ Tát)

Tượng Tuyết Sơn và bộ tượng Di Lặc Tam Tôn ở chùa Tây Phương-4
Tượng Văn Thù Bồ Tát

Tượng Bồ tát Đại Diệu Tường được tạc ở tư thế đứng thẳng trên bệ hình chữ nhật giật cấp. Hai tay đưa về trước ngực nắm lại, tay trái bọc ra ngoài tay phải như cái Định giữ yên cho cái Tuệ, được gọi là kiểu kết ấn Mật phùng. Tượng tạc người đã cao tuổi, trán có mấy nếp nhăn, mặt xương xương, ngực và tay lộ rõ các giải xương, da thịt khô, miệng mím tự nhiên, môi đỏ, tai chảy dài, toàn thân biểu thị sự khắc khổ, chậm chạp. Tượng tạc trong thế đứng yên, áo cà sa nhiều lớp, với một số nếp chảy xuôi, vạt vải mềm mại như có gió thổi bay về trước. Cổ đeo tràng hạt, dáng nghiêm túc. Bệ tượng bổ ô ở bốn mặt cạnh, chạm nổi hình hoa lá cách điệu, diềm hình khánh, chạm nổi hình dây lá cách điệu, bốn chân chạm kiểu chân quỳ dạ cá. Hai pho tượng Bồ tát Pháp Hoa Lâm và Đại Diệu Tường có cấu trúc cân đối, được nghiên cứu kỹ cả giải phẫu và tâm lý, mang tính chất chân dung sống động, thuộc phong cách nghệ thuật thời Tây Sơn (thế kỷ XVIII). Có thể liên tưởng Đại Diệu Tường với Diệu Cát Tường là một pháp danh khác của Văn Thù Sư Li tức Bồ tát Văn Thù. Như thế, có thể nghĩ Bồ tát Phổ Hiền được nói đến nhiều trong kinh Pháp Hoa và phép tu Pháp Hoa Tam muội là Bồ tát Pháp Hoa Lâm.

Tượng Tuyết Sơn và bộ tượng Di Lặc tam tôn (gồm có tượng Di Lặc, tượng Pháp Hoa Lâm Bồ Tát và Đại Diệu Tường Bồ Tát) được bài trí trong phật điện của chùa.

Tượng Tuyết Sơn

Tượng Tuyết Sơn và bộ tượng Di Lặc Tam Tôn ở chùa Tây Phương-1
Tượng Tuyết Sơn

chùa Tây Phương, đức Thích Ca thành đạo được thay bằng tượng Tuyết Sơn, tức Thích Ca đang tu khổ hạnh trên núi cao, chưa đạt được sự giác ngộ. Tuyết Sơn chưa thành Phật, chưa có nhục kháo, không ngồi trên tòa sen. Các nhà điêu khắc xưa đã tạc tượng Tuyết Sơn mang hình chân dung một ông già quê ngồi nhàn tản, chân khoanh, chân chống, tay tì tự nhiên trên gối, đầu hơi nhô về trước, khuôn mặt nhân hậu, dáng trầm ngâm. Toàn thể thu về một khối tĩnh lặng, nhưng với khối đầu tròn căng mà má hóp, hốc mắt sâu, cổ ngẳng, ngực và tay nhô đủ bộ xương, các mạch máu hằn nổi rõ lại toát ra sự sôi động ngầm bên trong. Cùng với các khối lõm trên thân là chủ đạo, vạt áo với nhiều nếp nhăn vặn cũng toát lên một nội tâm đau khổ, dằn vặt, không lối thoát. Đây là pho tượng duy nhất sơn toàn thân một màu đen ánh nâu, tạo bóng tối cũng gợi cái chết hình thức bao trùm cái sống thuộc bản thể. Phong cách tạc tượng ở đây, với lối tả thực trên cơ sở nắm vững khoa học giải phẫu và đi sâu vào tâm lý nhân vật, tượng Tuyết Sơn mang đậm chất chân dung “giống và sống”, chỉ có thể là sản phẩm nghệ thuật của thời Tây Sơn hiển hách và sôi động.

Tượng Di Lặc

Tượng Tuyết Sơn và bộ tượng Di Lặc Tam Tôn ở chùa Tây Phương-2
Tượng Di Lặc

Di Lặc là một trong tám vị Đại Bồ Tát, nhưng đã được đức Phật hiện tại báo trước ngài sẽ thành Phật trong tương lai. Khi nào “Di Lặc xuất thế, thiên hạ thái bình” nên hình tượng ngài được nghệ sĩ xây dựng bằng niềm hy vọng và sự trông chờ: Con người béo tốt, đẫy đà, toàn thân cười hỉ hả, khuôn mặt rạng rỡ… có nghĩa đầy đủ cả về vật chất và tin thần, không còn đòi hỏi gì hơn. Với tinh thần đó, tượng được xây dựng bằng những khối căng tròn, thân hình phốp pháp, ngồi khoanh chân chống ngả đằng sau rất thoải mái, tay phải để úp nhẹ trên đùi, tay trái tì khuỷu lên chiếc gối hậu thiên phồng to, áo mặc mở phanh, hở cả ngực và bụng. Tham gia vào tạo hình cùng với khối còn có những đường cong dường như song hành ở ngấn bụng, ở cổ tay áo, ở gấu quần càng làm tăng sự chuyển động ngầm trong một khối đóng kín tĩnh. Toàn thân tượng được sơn màu xanh xám như đồng càng chắc nịch. Từ pho tương này luôn toát ra cái sinh khí của thời đại Tây Sơn đầy những tự hào. Đây là pho tượng Di Lặc thuộc loại sơm nhất hiện còn, là hình mẫu cho nhiều tượng cùng tính chất ở thời Nguyễn phỏng theo. Phong cách tạc tượng ở đây đã kết hợp được sự tinh tế của nghệ thuật với sự chuẩn xác của giải phẫu và tâm sinh lý thuộc khoa học thời Tây Sơn (thế kỷ XVIII).

Tượng Pháp Hoa Lâm Bồ Tát (Phổ Hiền Bồ Tát)

Tượng Tuyết Sơn và bộ tượng Di Lặc Tam Tôn ở chùa Tây Phương-3
Tượng Phổ Hiền Bồ Tát

Tượng Bồ tát Pháp Hoa Lâm được tạc ở tư thế đứng thẳng trên bệ hình chữ nhật giật cấp. Hai tay tượng chắp trước ngực theo thế kết ấn “liên hoa hợp chưởng”: Duỗi thẳng mười ngón tay rồi chắp lại như bông sen hé nở. Kiểu ấn này là tay người khi còn ở bào thai, dó đó có tên là ấn Bản Tam – muội – da, biểu thị sự bất nhị, không chia hai của lý trí. Khi con người ra đời thì hai tay tách ra và nắm bàn tay lại tạo ra vô số nghiệp. Tượng có khuôn mặt trẻ dáng trầm ngâm, mắt hơi khép, mày cong, má mịn, miệng mím tự nhiên, môi đỏ, tai chảy dài, cổ cao có ngấn. Tượng tạc trong thế đứng yên mà như nhích bước nhẹ nhàng, áo cà sa nhiều lớp, dài trùm chân với những nếp gấp chảy rất sóng, càng làm cho tượng chững chạc, vươn cao. Bệ tượng bổ ô ở bốn mặt cạnh, chạm nổi hình hoa lá cách điệu, diềm hình khánh, chạm nổi hình dây lá cách điệu, bốn chân chạm kiểu chân quỳ dạ cá. Phong cách tạc tượng ở đây đã kết hợp được sự tinh tế của nghệ thuật với sự chuẩn xác của giải phẫu và tâm sinh lý thuộc khoa học thời Tây Sơn (thế kỷ XVIII).

Tượng Đại Diệu Tường Bồ Tát (Văn Thù Bồ Tát)

Tượng Tuyết Sơn và bộ tượng Di Lặc Tam Tôn ở chùa Tây Phương-4
Tượng Văn Thù Bồ Tát

Tượng Bồ tát Đại Diệu Tường được tạc ở tư thế đứng thẳng trên bệ hình chữ nhật giật cấp. Hai tay đưa về trước ngực nắm lại, tay trái bọc ra ngoài tay phải như cái Định giữ yên cho cái Tuệ, được gọi là kiểu kết ấn Mật phùng. Tượng tạc người đã cao tuổi, trán có mấy nếp nhăn, mặt xương xương, ngực và tay lộ rõ các giải xương, da thịt khô, miệng mím tự nhiên, môi đỏ, tai chảy dài, toàn thân biểu thị sự khắc khổ, chậm chạp. Tượng tạc trong thế đứng yên, áo cà sa nhiều lớp, với một số nếp chảy xuôi, vạt vải mềm mại như có gió thổi bay về trước. Cổ đeo tràng hạt, dáng nghiêm túc. Bệ tượng bổ ô ở bốn mặt cạnh, chạm nổi hình hoa lá cách điệu, diềm hình khánh, chạm nổi hình dây lá cách điệu, bốn chân chạm kiểu chân quỳ dạ cá. Hai pho tượng Bồ tát Pháp Hoa Lâm và Đại Diệu Tường có cấu trúc cân đối, được nghiên cứu kỹ cả giải phẫu và tâm lý, mang tính chất chân dung sống động, thuộc phong cách nghệ thuật thời Tây Sơn (thế kỷ XVIII). Có thể liên tưởng Đại Diệu Tường với Diệu Cát Tường là một pháp danh khác của Văn Thù Sư Li tức Bồ tát Văn Thù. Như thế, có thể nghĩ Bồ tát Phổ Hiền được nói đến nhiều trong kinh Pháp Hoa và phép tu Pháp Hoa Tam muội là Bồ tát Pháp Hoa Lâm.

Phật giáo

Bộ tượng Di Đà Tam Tôn ở chùa Tây Phương

Bộ tượng Di Đà Tam Tôn được bài trí trong phật điện của chùa Tây Phương gồm có tượng phật  A Di Đà, tượng Đại Thế Chí Bồ Tát và Quan Thế Âm Bồ Tát.

1744

Bộ tượng Di Đà Tam Tôn được bài trí trong phật điện của chùa Tây Phương gồm có tượng phật  A Di Đà, tượng Đại Thế Chí Bồ Tát và Quan Thế Âm Bồ Tát.

Tượng phật A Di Đà

Tượng tạc trong tư thế đứng trên đài sen (là pho tượng duy nhất được đứng trên đài sen, vì hoa sen là tiêu biểu cho công đức của đức phật A Di Đà).

Bộ tượng Di Đà Tam Tôn ở chùa Tây Phương
Tượng phật A di đà – chùa Tây Phương

Tượng A Di Đà thường thể hiện ở thế ngồi thiền định, nhưng tượng A Di Đà chùa Tây Phương lại được tạc ở tư thế đứng. Có ý kiến cho rằng, A Di Đà đứng là để biểu hiện sự cứu độ gấp gáp, vì chúng sinh đã chìm đắm quá sâu vào tục lụy. Tượng được biểu hiện rõ quý tướng với nhục kháo, tóc xoắn, tai dài. Ngài có khuôn mặt đầy đặn, mũi dọc dừa trong sáng, lông mày cong thanh tao, mắt khép hờ nhìn xuống chóp mũi như để soi tỏ nội tâm, miệng nhỏ khép với những khóe nhăn lại như mỉm cười đôn hậu. Thân hình chắc lẳn, khỏe mạnh, đứng thẳng, tay buông xuôi, duỗi thẳng các ngón, tay trái gấp ngang trước bụng cầm viên ngọc minh châu biểu hiện ánh sáng Phật pháp diệu kỳ của ngài. Tượng A Di Đà được trang sức đơn giản, ngực đeo anh lạc là xâu chuỗi ngọc gắn với quý nhân, ngoài anh lạc là chữ “Vạn” có 04 đầu như 04 ngọn lửa quay ngược chiều kim đồng hồ, là chuyển động mở, thuận, giúp thiêu đốt phiền não, đem lại an lạc. Tượng chỉ khoác chiếc áo cà sa vải mỏng, nhẹ như quận buộc quanh người, xòe bay với những nếp uốn lượn tự nhiên, còn để hở ngực và cánh tay phải. Tượng được tạc cân đối, mang nét chân dung, đứng lặng mà rất động, là phong cách riêng của nghệ thuật Tây Sơn.

Tượng Đại Thế Chí Bồ Tát

Ở chùa Tây Phương, hai vị Bồ tát Quan Thế Âm và Đại Thế Chí được tạc rất giống nhau.

Bộ tượng Di Đà Tam Tôn ở chùa Tây Phương-1
Tượng Đại Thế Chí Bồ Tát – chùa Tây Phương

Tượng Đại Thế Chí Bồ tát được tạc trong thế đứng trên bệ hình chữ nhật giật cấp, tay phải gấp đứng, tay trái gấp ngang. Tượng tạc mang hình nữ, thể hiện cái đẹp tinh khiết, quý phái. Khuôn mặt trái xoan hơi nhìn xuống, mũi dọc dừa cao sang, lông mày thanh cong, mắt phượng, miệng mím, cằm lẳn có ngấn, tai dài, cổ cao ba ngấn, thân mình dong dỏng, cánh tay trần tròn lẳn, đeo vòng trên cả cánh tay và cổ tay, các ngón tay thon thả đang kết ấn “chuyển pháp luân” để hội tụ sinh lực cứu chúng sinh. Tượng được trang sức đơn giản nhưng trang nhã mượt mà. Tóc chải hất lên rồi được chụp bằng chiếc mũ tì lư với cánh sen tươi rói, nổi khối, rủ tua xuống ngực, tóc mai chảy vắt qua tai xuống vai rồi phân ra các dải xuôi cánh tay. Tượng mặc áo dài, các vạt chạy rất sóng, các nếp uốn cong chữ V tạo vẻ tôn nghiêm, chững chạc. Cổ và ngực đeo dây anh lạc khá cầu kỳ. Màu gụ sáng nhạt của mũ áo càng tôn màu trắng ngà của nước da trắng mịn màng. Phong cách tạc tượng ở đây đã kết hợp được sự tinh tế của nghệ thuật nửa đầu thế kỷ XVII với sự chuẩn xác của giải phẫu và tâm sinh lý thuộc khoa học thời Tây Sơn (thế kỷ XVIII).

Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát

Tượng Quan Thế Âm Bồ tát được tạc trong thế đứng trên bệ hình chữ nhật giật cấp, tay phải gấp ngang, tay trái gấp đứng.

Bộ tượng Di Đà Tam Tôn ở chùa Tây Phương-2
Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát – chùa Tây Phương

Tượng tạc mang hình nữ, thể hiện cái đẹp tinh khiết, quý phái. Khuôn mặt trái xoan hơi nhìn xuống, mũi dọc dừa cao sang, lông mày thanh cong, mắt phượng, miệng mím, cằm lẳn có ngấn, tai dài, cổ cao ba ngấn, thân mình dong dỏng, cánh tay trần tròn lẳn, đeo vòng trên cả cánh tay và cổ tay, các ngón tay thon thả đang kết ấn “chuyển pháp luân” để hội tụ sinh lực cứu chúng sinh. Tượng được trang sức đơn giản nhưng trang nhã mượt mà. Tóc chải hất lên rồi được chụp bằng chiếc mũ tì lư với cánh sen tươi rói, nổi khối, rủ tua xuống ngực, tóc mai chảy vắt qua tai xuống vai rồi phân ra các dải xuôi cánh tay. Tượng mặc áo dài, các vạt chạy rất sóng, các nếp uốn cong chữ V tạo vẻ tôn nghiêm, chững chạc. Cổ và ngực đeo dây anh lạc khá cầu kỳ. Màu gụ sáng nhạt của mũ áo càng tôn màu trắng ngà của nước da trắng mịn màng. Phong cách tạc tượng ở đây đã kết hợp được sự tinh tế của nghệ thuật nửa đầu thế kỷ XVII với sự chuẩn xác của giải phẫu và tâm sinh lý thuộc khoa học thời Tây Sơn (thế kỷ XVIII).

Bộ tượng Di Đà Tam Tôn được bài trí trong phật điện của chùa Tây Phương gồm có tượng phật  A Di Đà, tượng Đại Thế Chí Bồ Tát và Quan Thế Âm Bồ Tát.

Tượng phật A Di Đà

Tượng tạc trong tư thế đứng trên đài sen (là pho tượng duy nhất được đứng trên đài sen, vì hoa sen là tiêu biểu cho công đức của đức phật A Di Đà).

Bộ tượng Di Đà Tam Tôn ở chùa Tây Phương
Tượng phật A di đà – chùa Tây Phương

Tượng A Di Đà thường thể hiện ở thế ngồi thiền định, nhưng tượng A Di Đà chùa Tây Phương lại được tạc ở tư thế đứng. Có ý kiến cho rằng, A Di Đà đứng là để biểu hiện sự cứu độ gấp gáp, vì chúng sinh đã chìm đắm quá sâu vào tục lụy. Tượng được biểu hiện rõ quý tướng với nhục kháo, tóc xoắn, tai dài. Ngài có khuôn mặt đầy đặn, mũi dọc dừa trong sáng, lông mày cong thanh tao, mắt khép hờ nhìn xuống chóp mũi như để soi tỏ nội tâm, miệng nhỏ khép với những khóe nhăn lại như mỉm cười đôn hậu. Thân hình chắc lẳn, khỏe mạnh, đứng thẳng, tay buông xuôi, duỗi thẳng các ngón, tay trái gấp ngang trước bụng cầm viên ngọc minh châu biểu hiện ánh sáng Phật pháp diệu kỳ của ngài. Tượng A Di Đà được trang sức đơn giản, ngực đeo anh lạc là xâu chuỗi ngọc gắn với quý nhân, ngoài anh lạc là chữ “Vạn” có 04 đầu như 04 ngọn lửa quay ngược chiều kim đồng hồ, là chuyển động mở, thuận, giúp thiêu đốt phiền não, đem lại an lạc. Tượng chỉ khoác chiếc áo cà sa vải mỏng, nhẹ như quận buộc quanh người, xòe bay với những nếp uốn lượn tự nhiên, còn để hở ngực và cánh tay phải. Tượng được tạc cân đối, mang nét chân dung, đứng lặng mà rất động, là phong cách riêng của nghệ thuật Tây Sơn.

Tượng Đại Thế Chí Bồ Tát

Ở chùa Tây Phương, hai vị Bồ tát Quan Thế Âm và Đại Thế Chí được tạc rất giống nhau.

Bộ tượng Di Đà Tam Tôn ở chùa Tây Phương-1
Tượng Đại Thế Chí Bồ Tát – chùa Tây Phương

Tượng Đại Thế Chí Bồ tát được tạc trong thế đứng trên bệ hình chữ nhật giật cấp, tay phải gấp đứng, tay trái gấp ngang. Tượng tạc mang hình nữ, thể hiện cái đẹp tinh khiết, quý phái. Khuôn mặt trái xoan hơi nhìn xuống, mũi dọc dừa cao sang, lông mày thanh cong, mắt phượng, miệng mím, cằm lẳn có ngấn, tai dài, cổ cao ba ngấn, thân mình dong dỏng, cánh tay trần tròn lẳn, đeo vòng trên cả cánh tay và cổ tay, các ngón tay thon thả đang kết ấn “chuyển pháp luân” để hội tụ sinh lực cứu chúng sinh. Tượng được trang sức đơn giản nhưng trang nhã mượt mà. Tóc chải hất lên rồi được chụp bằng chiếc mũ tì lư với cánh sen tươi rói, nổi khối, rủ tua xuống ngực, tóc mai chảy vắt qua tai xuống vai rồi phân ra các dải xuôi cánh tay. Tượng mặc áo dài, các vạt chạy rất sóng, các nếp uốn cong chữ V tạo vẻ tôn nghiêm, chững chạc. Cổ và ngực đeo dây anh lạc khá cầu kỳ. Màu gụ sáng nhạt của mũ áo càng tôn màu trắng ngà của nước da trắng mịn màng. Phong cách tạc tượng ở đây đã kết hợp được sự tinh tế của nghệ thuật nửa đầu thế kỷ XVII với sự chuẩn xác của giải phẫu và tâm sinh lý thuộc khoa học thời Tây Sơn (thế kỷ XVIII).

Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát

Tượng Quan Thế Âm Bồ tát được tạc trong thế đứng trên bệ hình chữ nhật giật cấp, tay phải gấp ngang, tay trái gấp đứng.

Bộ tượng Di Đà Tam Tôn ở chùa Tây Phương-2
Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát – chùa Tây Phương

Tượng tạc mang hình nữ, thể hiện cái đẹp tinh khiết, quý phái. Khuôn mặt trái xoan hơi nhìn xuống, mũi dọc dừa cao sang, lông mày thanh cong, mắt phượng, miệng mím, cằm lẳn có ngấn, tai dài, cổ cao ba ngấn, thân mình dong dỏng, cánh tay trần tròn lẳn, đeo vòng trên cả cánh tay và cổ tay, các ngón tay thon thả đang kết ấn “chuyển pháp luân” để hội tụ sinh lực cứu chúng sinh. Tượng được trang sức đơn giản nhưng trang nhã mượt mà. Tóc chải hất lên rồi được chụp bằng chiếc mũ tì lư với cánh sen tươi rói, nổi khối, rủ tua xuống ngực, tóc mai chảy vắt qua tai xuống vai rồi phân ra các dải xuôi cánh tay. Tượng mặc áo dài, các vạt chạy rất sóng, các nếp uốn cong chữ V tạo vẻ tôn nghiêm, chững chạc. Cổ và ngực đeo dây anh lạc khá cầu kỳ. Màu gụ sáng nhạt của mũ áo càng tôn màu trắng ngà của nước da trắng mịn màng. Phong cách tạc tượng ở đây đã kết hợp được sự tinh tế của nghệ thuật nửa đầu thế kỷ XVII với sự chuẩn xác của giải phẫu và tâm sinh lý thuộc khoa học thời Tây Sơn (thế kỷ XVIII).

Văn hóa tâm linh

Chùa Tây Phương, Di tích quốc gia đặc biệt của thủ đô Hà Nội

Đến chùa Tây Phương (Thạch Thất, Hà Nội) để lắng lại tâm hồn và còn được tìm hiểu về lịch sử, nghệ thuật điêu khắc tại đây.

1935

Chùa Tây Phương ở đâu?

Chùa Tây Phương, hay tên chữ “Sùng Phúc tự” là di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật, nằm trên địa phận xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, Hà Tây (cũ) cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 40 km về phía Tây, theo Đại lộ Thăng Long, qua ngã tư Chùa Thầy, rẽ phải khoảng 5 km, sau đó rẽ trái 1 km nữa, là đến di tích.

Chùa Tây Phương, Di tích quốc gia đặc biệt của thủ đô Hà Nội
Bên ngoài cổng chùa Tây Phương

Chùa Tây Phương hình thành từ bao giờ?

Truyền thuyết kể lại rằng, sự ra đời của ngôi chùa gắn liền với quá trình truyền bá Phật giáo vào Việt Nam. Muộn hơn vài thế kỷ, câu chuyện lại nghiêng sang một hướng khác, gắn với nhân vật Cao Biền – Tiết độ sứ thời nhà Đường (864 – 868) đã từng cai trị An Nam và đến đây xây dựng một kiến trúc tôn giáo, với ý đồ chặn long mạch xứ này.

Truyền thuyết vẫn là truyền thuyết, còn chứng tích vật chất liên quan tới ngôi chùa, đó là thời Mạc Phúc Nguyên (1547 – 1561). Đây chính là thời điểm để ngôi chùa có quy mô như hiện nay. Sau đó, Vua Lê Thần Tông, Chúa Tây Vương Trịnh Tạc, Vua Lê Hy Tông có tu sửa thêm, nhưng không nhiều.

Phong cảnh, kiến trúc chùa Tây Phương

Chùa Tây Phương nổi tiếng không chỉ ở sự cổ kính qua truyền thuyết và lịch sử, nó còn nổi tiếng ở cảnh quan mê hồn, bởi tọa lạc trên đỉnh núi Câu Lâu, đột khởi giữa vùng đồng bằng màu mỡ, với núi, non, sông, nước gắn liền với quan niệm phong thủy phương Đông. Tây Phương còn nổi tiếng ở bộ tượng thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng, có thể coi là Phật điện đông đúc nhất trong các ngôi chùa ở Việt Nam có giá trị tiêu biểu, xuất sắc về tượng gỗ, được công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2013.

Chùa Tây Phương hiện nay là một quần thể các đơn nguyên, bao gồm các hạng mục sau: Tam quan hạ, Tam quan thượng, Miếu Sơn Thần, Tiền đường, Trung đường, Thượng điện, Nhà tổ, Nhà Mẫu và Nhà khách.

Chùa Tây Phương, Di tích quốc gia đặc biệt của thủ đô Hà Nội-1

Từ Tam quan hạ phái đi lên 247 bậc đá ong mới đến Tam quan Thượng. Miếu Sơn Thần nằm ở bên trái chùa, tách biệt với khu chùa chính. Đây là đơn nguyên vừa đóng vai trò là nơi thờ thần núi, vừa là nhà thờ Đức Ông, có diện tích khiêm tốn với kiến trúc gỗ lợp ngói truyền thống. Chùa Chính là hạng mục chủ yếu của toàn bộ phúc hợp Tây Phương. Chùa nằm trên đỉnh núi Câu Lâu, có kết cấu kiến trúc chữ công, bao gồm các tòa Tiền đường, Trung đường và Thượng điện. Cả ba đều có kết cấu kiến trúc khung gỗ kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái. Cả hai tầng mái đều theo kiểu “tàu đao lá mái”, giữa hai tầng là cổ diêm được bưng kín bởi những tấm ván đố. Tiền đường và Thượng điện 5 gian, 2 chái với 6 bộ vì nóc, còn Trung đường được thu ngắn chiều ngang, chỉ còn 3 gian 2 chái, 4 bộ vì kèo, nhưng lại có mái thượng điện cao vượt hẳn lên.

Chùa Tây Phương, Di tích quốc gia đặc biệt của thủ đô Hà Nội-2

Phần cổ diêm ở Tiền đường và Thượng điện có kích thước giống nhau và có chiều cao 1m, còn ở Trung đường có kích thước lớn hơn, cao 1,40m. Do Cổ diêm cao hơn như thế, nên tuy mái của cả 3 tòa đều cao bằng nhau, nhưng mái trên của tòa giữa lại trội vượt hẳn lên, theo đó, nhìn tổng thể chùa, chúng ta thấy Trung đường cao hơn hẳn. Mặt trước tòa Tiền đường bưng cửa gỗ bức bàn ở 3 gian giữa, hai bên xây gạch chỉ không trát vôi vữa, là ngôn ngữ của mặt tường ngoài, tiêu biểu cho cả ba đơn nguyên.

Chùa chính Tây Phương còn rất nhiều sự đặc biệt về kết cấu khung gỗ, về tàu mái, bộ mái, cùng các mảng đề tài trang trí trên kiến trúc gỗ. Để cảm nhận được hết vẻ đẹp của ngôi chùa nói chung, kiến trúc ngôi chùa chính nói riêng, chắc chắn không một bài viết nào nói hết, mong du khách thập phương, những người hành hương đến tận nơi chiêm ngắm mới cảm nhận được hết vẻ đẹp của hạng mục này.

Ngoài Chùa Chính là đơn nguyên nổi bật, Tam quan hạ, Tam quan Thượng nêu trên, thì với Nhà Tổ, Nhà Mẫu, Nhà Khách cùng với các đơn nguyên ấy đã tạo nên vẻ uy nghi, quy mô to lớn của quần thể Tây Phương.

Nhà Tổ – Nhà Mẫu làm theo kiểu 3 gian hai dĩ, kết cấu theo kiểu chữ “Nhị”. Phía bên ngoài thờ Tổ, phía bên trong thờ Mẫu. Các vì chính của Nhà Tổ được liên kết theo kiểu “vì kèo giá chiêng”. Ba gian giữa của Nhà Tổ được bưng cửa bức bàn, hai gian chái ở đầu hồi bưng bằng cửa ván đố. Trên bộ vì nóc và cốn, lại không theo kết cấu “vì kéo giá chiêng” mà thay bằng kết cấu “chồng rường”. Các con rường được cách điệu thành hoa, lá, đao mác. Tại bốn chiếc cốn ở đây, nghệ nhân chạm hình cây mai, tùng, cúc, trúc, được quyện trong đề tài mai điểu, trúc tước, cúc điệp, tùng lộc, có phong cách tương đồng với nghệ thuật Chùa Chính.

Nhà khách là hạng mục nằm ở sườn phải của Chùa Chính. Hạng mục này mới được phục dựng lại trong những năm gần đây, nhưng vẫn tuân thủ kiến trúc truyền thống và đồng điệu với phong cách kiến trúc của toàn bộ các đơn nguyên Tây Phương. Nhà khách gồm 7 gian, kết cấu theo kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ri, hai hồi dải thoải dần theo hình tay ngai. Các bộ vì kèo theo kiểu kèo kẻ, bào trơn đóng bén. Các vì bên trong được làm theo kiểu “giá chiêng kẻ ngồi”. Hai bộ vì kèo làm theo lối ván mê đố lụa với lối hoa văn giản lược.

Điểm nhấn của Tây Phương đối với du khách là hệ thống tượng pháp, với những kiệt tác hiếm có trong nghệ thuật điêu khắc tôn giáo. Tiêu biểu là các pho Tuyết Sơn, Thập bát vị La Hán, Bát Bộ kim cương, có niên đại thế kỷ 18. Ngoài ra còn có nhiều pho tượng nổi tiếng khác, thuộc thế kỷ 19, cũng vô cùng ấn tượng. Có thể nói, Tây Phương là một bảo tàng về tượng Phật giáo Việt Nam. Nói như thế, chắc cũng không lấy gì là ngoa ngôn, cường điệu.

Chùa Tây Phương, Di tích quốc gia đặc biệt của thủ đô Hà Nội-3

Chùa Tây Phương, Di tích quốc gia đặc biệt của thủ đô Hà Nội-4
tượng các vị La Hán chùa Tây Phương

Chùa Tây Phương là một công trình kiến trúc độc đáo vào hạng nhất trong các ngôi chùa ở Việt Nam, với sự kết hợp giữa phong cách kiến trúc truyền thống và không gian sinh cảnh tự nhiên, do đó, giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật của nó, cùng với bộ tượng Phật trong chùa, xứng đáng để Tây Phương là “đệ nhất cổ tự”. Chính vì lẽ đó, năm 2014, Chính phủ đã công nhận ngôi chùa này là Di tích Quốc gia đặc biệt về giá trị kiến trúc nghệ thuật.

Viết về Tây Phương chắc còn phải nhiều giấy mực, nhưng để cảm nhận được đầy đủ và trọn vẹn về Tây Phương, mong du khách và người hành hương phải đến tận nơi mới thấy hết được.

Lễ hội chùa Tây Phương diễn ra khi nào?

Lễ hội chùa Tây Phương vào ngày 6-3 Âm lịch, nhưng được diễn ra nhiều ngày trước đó với nhiều sinh hoạt văn hóa mang đậm chất xứ Đoài, đó là kéo co, đánh cờ, vật, chọi gà, rối nước, hát xứ Đoài… cùng với nghi thức cúng Phật trang nghiêm như lễ mộc dục, chạy đàn, tụng kinh, kế hạnh… đã tạo nên một không khí, không chỉ quy mô hội làng mà còn mở rộng ra vùng và liên vùng, mà bài viết này muốn giới thiệu sơ qua để du khách trải nghiệm. Thế nhưng, để tận hưởng được đầy đủ và trọn vẹn, mong du khách phải đến nhiều hơn với Tây Phương thì mới có thể thỏa mãn, khi bên trong đó còn chứa nhiều điều bí ẩn, mà người viết bài này không thể giới thiệu được hết.

Chùa Tây Phương ở đâu?

Chùa Tây Phương, hay tên chữ “Sùng Phúc tự” là di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật, nằm trên địa phận xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, Hà Tây (cũ) cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 40 km về phía Tây, theo Đại lộ Thăng Long, qua ngã tư Chùa Thầy, rẽ phải khoảng 5 km, sau đó rẽ trái 1 km nữa, là đến di tích.

Chùa Tây Phương, Di tích quốc gia đặc biệt của thủ đô Hà Nội
Bên ngoài cổng chùa Tây Phương

Chùa Tây Phương hình thành từ bao giờ?

Truyền thuyết kể lại rằng, sự ra đời của ngôi chùa gắn liền với quá trình truyền bá Phật giáo vào Việt Nam. Muộn hơn vài thế kỷ, câu chuyện lại nghiêng sang một hướng khác, gắn với nhân vật Cao Biền – Tiết độ sứ thời nhà Đường (864 – 868) đã từng cai trị An Nam và đến đây xây dựng một kiến trúc tôn giáo, với ý đồ chặn long mạch xứ này.

Truyền thuyết vẫn là truyền thuyết, còn chứng tích vật chất liên quan tới ngôi chùa, đó là thời Mạc Phúc Nguyên (1547 – 1561). Đây chính là thời điểm để ngôi chùa có quy mô như hiện nay. Sau đó, Vua Lê Thần Tông, Chúa Tây Vương Trịnh Tạc, Vua Lê Hy Tông có tu sửa thêm, nhưng không nhiều.

Phong cảnh, kiến trúc chùa Tây Phương

Chùa Tây Phương nổi tiếng không chỉ ở sự cổ kính qua truyền thuyết và lịch sử, nó còn nổi tiếng ở cảnh quan mê hồn, bởi tọa lạc trên đỉnh núi Câu Lâu, đột khởi giữa vùng đồng bằng màu mỡ, với núi, non, sông, nước gắn liền với quan niệm phong thủy phương Đông. Tây Phương còn nổi tiếng ở bộ tượng thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng, có thể coi là Phật điện đông đúc nhất trong các ngôi chùa ở Việt Nam có giá trị tiêu biểu, xuất sắc về tượng gỗ, được công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2013.

Chùa Tây Phương hiện nay là một quần thể các đơn nguyên, bao gồm các hạng mục sau: Tam quan hạ, Tam quan thượng, Miếu Sơn Thần, Tiền đường, Trung đường, Thượng điện, Nhà tổ, Nhà Mẫu và Nhà khách.

Chùa Tây Phương, Di tích quốc gia đặc biệt của thủ đô Hà Nội-1

Từ Tam quan hạ phái đi lên 247 bậc đá ong mới đến Tam quan Thượng. Miếu Sơn Thần nằm ở bên trái chùa, tách biệt với khu chùa chính. Đây là đơn nguyên vừa đóng vai trò là nơi thờ thần núi, vừa là nhà thờ Đức Ông, có diện tích khiêm tốn với kiến trúc gỗ lợp ngói truyền thống. Chùa Chính là hạng mục chủ yếu của toàn bộ phúc hợp Tây Phương. Chùa nằm trên đỉnh núi Câu Lâu, có kết cấu kiến trúc chữ công, bao gồm các tòa Tiền đường, Trung đường và Thượng điện. Cả ba đều có kết cấu kiến trúc khung gỗ kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái. Cả hai tầng mái đều theo kiểu “tàu đao lá mái”, giữa hai tầng là cổ diêm được bưng kín bởi những tấm ván đố. Tiền đường và Thượng điện 5 gian, 2 chái với 6 bộ vì nóc, còn Trung đường được thu ngắn chiều ngang, chỉ còn 3 gian 2 chái, 4 bộ vì kèo, nhưng lại có mái thượng điện cao vượt hẳn lên.

Chùa Tây Phương, Di tích quốc gia đặc biệt của thủ đô Hà Nội-2

Phần cổ diêm ở Tiền đường và Thượng điện có kích thước giống nhau và có chiều cao 1m, còn ở Trung đường có kích thước lớn hơn, cao 1,40m. Do Cổ diêm cao hơn như thế, nên tuy mái của cả 3 tòa đều cao bằng nhau, nhưng mái trên của tòa giữa lại trội vượt hẳn lên, theo đó, nhìn tổng thể chùa, chúng ta thấy Trung đường cao hơn hẳn. Mặt trước tòa Tiền đường bưng cửa gỗ bức bàn ở 3 gian giữa, hai bên xây gạch chỉ không trát vôi vữa, là ngôn ngữ của mặt tường ngoài, tiêu biểu cho cả ba đơn nguyên.

Chùa chính Tây Phương còn rất nhiều sự đặc biệt về kết cấu khung gỗ, về tàu mái, bộ mái, cùng các mảng đề tài trang trí trên kiến trúc gỗ. Để cảm nhận được hết vẻ đẹp của ngôi chùa nói chung, kiến trúc ngôi chùa chính nói riêng, chắc chắn không một bài viết nào nói hết, mong du khách thập phương, những người hành hương đến tận nơi chiêm ngắm mới cảm nhận được hết vẻ đẹp của hạng mục này.

Ngoài Chùa Chính là đơn nguyên nổi bật, Tam quan hạ, Tam quan Thượng nêu trên, thì với Nhà Tổ, Nhà Mẫu, Nhà Khách cùng với các đơn nguyên ấy đã tạo nên vẻ uy nghi, quy mô to lớn của quần thể Tây Phương.

Nhà Tổ – Nhà Mẫu làm theo kiểu 3 gian hai dĩ, kết cấu theo kiểu chữ “Nhị”. Phía bên ngoài thờ Tổ, phía bên trong thờ Mẫu. Các vì chính của Nhà Tổ được liên kết theo kiểu “vì kèo giá chiêng”. Ba gian giữa của Nhà Tổ được bưng cửa bức bàn, hai gian chái ở đầu hồi bưng bằng cửa ván đố. Trên bộ vì nóc và cốn, lại không theo kết cấu “vì kéo giá chiêng” mà thay bằng kết cấu “chồng rường”. Các con rường được cách điệu thành hoa, lá, đao mác. Tại bốn chiếc cốn ở đây, nghệ nhân chạm hình cây mai, tùng, cúc, trúc, được quyện trong đề tài mai điểu, trúc tước, cúc điệp, tùng lộc, có phong cách tương đồng với nghệ thuật Chùa Chính.

Nhà khách là hạng mục nằm ở sườn phải của Chùa Chính. Hạng mục này mới được phục dựng lại trong những năm gần đây, nhưng vẫn tuân thủ kiến trúc truyền thống và đồng điệu với phong cách kiến trúc của toàn bộ các đơn nguyên Tây Phương. Nhà khách gồm 7 gian, kết cấu theo kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ri, hai hồi dải thoải dần theo hình tay ngai. Các bộ vì kèo theo kiểu kèo kẻ, bào trơn đóng bén. Các vì bên trong được làm theo kiểu “giá chiêng kẻ ngồi”. Hai bộ vì kèo làm theo lối ván mê đố lụa với lối hoa văn giản lược.

Điểm nhấn của Tây Phương đối với du khách là hệ thống tượng pháp, với những kiệt tác hiếm có trong nghệ thuật điêu khắc tôn giáo. Tiêu biểu là các pho Tuyết Sơn, Thập bát vị La Hán, Bát Bộ kim cương, có niên đại thế kỷ 18. Ngoài ra còn có nhiều pho tượng nổi tiếng khác, thuộc thế kỷ 19, cũng vô cùng ấn tượng. Có thể nói, Tây Phương là một bảo tàng về tượng Phật giáo Việt Nam. Nói như thế, chắc cũng không lấy gì là ngoa ngôn, cường điệu.

Chùa Tây Phương, Di tích quốc gia đặc biệt của thủ đô Hà Nội-3

Chùa Tây Phương, Di tích quốc gia đặc biệt của thủ đô Hà Nội-4
tượng các vị La Hán chùa Tây Phương

Chùa Tây Phương là một công trình kiến trúc độc đáo vào hạng nhất trong các ngôi chùa ở Việt Nam, với sự kết hợp giữa phong cách kiến trúc truyền thống và không gian sinh cảnh tự nhiên, do đó, giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật của nó, cùng với bộ tượng Phật trong chùa, xứng đáng để Tây Phương là “đệ nhất cổ tự”. Chính vì lẽ đó, năm 2014, Chính phủ đã công nhận ngôi chùa này là Di tích Quốc gia đặc biệt về giá trị kiến trúc nghệ thuật.

Viết về Tây Phương chắc còn phải nhiều giấy mực, nhưng để cảm nhận được đầy đủ và trọn vẹn về Tây Phương, mong du khách và người hành hương phải đến tận nơi mới thấy hết được.

Lễ hội chùa Tây Phương diễn ra khi nào?

Lễ hội chùa Tây Phương vào ngày 6-3 Âm lịch, nhưng được diễn ra nhiều ngày trước đó với nhiều sinh hoạt văn hóa mang đậm chất xứ Đoài, đó là kéo co, đánh cờ, vật, chọi gà, rối nước, hát xứ Đoài… cùng với nghi thức cúng Phật trang nghiêm như lễ mộc dục, chạy đàn, tụng kinh, kế hạnh… đã tạo nên một không khí, không chỉ quy mô hội làng mà còn mở rộng ra vùng và liên vùng, mà bài viết này muốn giới thiệu sơ qua để du khách trải nghiệm. Thế nhưng, để tận hưởng được đầy đủ và trọn vẹn, mong du khách phải đến nhiều hơn với Tây Phương thì mới có thể thỏa mãn, khi bên trong đó còn chứa nhiều điều bí ẩn, mà người viết bài này không thể giới thiệu được hết.