Văn hóa tâm linh

Phong tục tập quán của người Mường ở Thanh Sơn, Phú Thọ

Người Mường ở Thanh Sơn, Phú Thọ nói riêng, Việt Nam nói chung chủ yếu theo tín ngưỡng thờ đa thần, một số ít theo Phật giáo.

716

Tín ngưỡng thờ cúng của người Mường

Từ xa xưa, người Mường đã quan niệm vũ trụ là một hệ thống gồm ba tầng, bốn thế giới. Tầng cao nhất là thế giới của Mường Trời (Mường Klơi) là nơi trú ngụ của Vua Trời và các phò tá của Vua Trời. Tầng giũa là Mường Pưa (Mương Pưa) – là thế giới của người sống, tập hợp lại thành các gia đình, xóm và mường. Tầng thứ ba có hai thế giới là Mường Pưa Tín (Mương Pưa Tín) ở dưới mặt đất và Mường Vua Khú (Mương Bua Khú) ở đáy nước. Thế giới Mường Pưa Tín ở bên dưới măt đất có lối thông lên thế giới của người trên mặt đất. Mường Pưa Tín không phải là âm ty, không phải là thế giới siêu nhiên, mà là thế giới của những người tí hon, gia súc cũng tí hon. Thế giới của Vua Khú là vương quốc của bọn khú dưới quyền cai quản của Vua Khú. Trong hệ thống vũ trụ ba tầng, bốn thế giới của người Mường nói trên, thì Mường Pưa – thế giới của người sống là trung tâm. Mọi đường đi đều xuất phát từ Mường Pưa, ba thế giới còn lại cũng đều quy tụ về đây. Tuy nhiên, mỗi thế giới trong quan niệm của người Mường lại có một bản chất riêng, do đó sự thông thương giữa các thế giới bị hạn chế. Mường Pưa là thế giới tự nhiên, là “cõi sống” của người Mường. Mường Pưa Tín, vốn thông thương với Mường Pưa, cũng là thế giới tự nhiên nhưng thấp kém hơn. Mường Trời là thế chuyện vui, buồn thì tất cả bản các gia đình trong bản Mường không phân biệt họ tộc hay không họ tôc đều chung tay chia sẻ cả vể vật chất lẫn tinh thần. Quan niệm việc hàng xóm là việc của mình, việc nhà mình là việc của hàng xóm đã trở thành lối sống ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người Mường. Đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống đã trở thành một luật lệ mà mỗi thành viên trong cộng đồng đều luôn phải có ý thức tự giác thực hiện. Thêm vào đó, tham gia vào các loại hình sinh hoạt tín ngưỡng khiến cho cộng đồng bản Mường thêm tôn trọng nội quy, luật tục, các thành viên trong cộng đồng thêm đoàn kết, gắn bó với nhau hơn.

Người Mường ở Thanh Sơn, Phú Thọ, ngoài tín ngưỡng thờ tổ tiên dòng họ còn có tín ngưỡng thờ tổ tiên của làng xã, dân tộc là thờ thành hoàng, thờ vua, thờ thần. Mỗi làng đều thờ thành hoàng là những người sáng lập làng hoặc thần bảo hộ cho cuộc sống của dân làng. Người Kinh, người Mường cùng thờ tổ tiên chung của dân tộc là các vua Hùng, các tướng lĩnh nhà Hùng, những người có công dựng nước và giữ nước. Tín ngưỡng thờ các vua Hùng tồn tại rất sâu đậm ở Phú Thọ và trở thành bản sắc nguồn cội của văn hoá dân gian vùng đất Tổ. Tản Viên Sơn thánh và các vị thần núi Tản được thờ phổ biến ở cả vùng người Kinh và người Mường – hai dân tộc có chung nguồn gốc bản địa từ cư dân Văn Lang thời các vua Hùng. Trong đó tập trung đậm đặc nhất ở mạn sông Đà Thanh Thuỷ, Thanh Sơn, tức là vùng đối diện với núi Tản Viên bên kia sông Đà, nơi cả 2 dân tộc Kinh, Mường sinh sống. Hầu hết các xã tập trung nhiều đồng bào Mường Phú Thọ đều có đình, miếu thờ cúng Tản Viên sơn thánh, được đồng bào gọi tắt là Tản Viên sơn. Thờ núi là tục thờ phổ biến ở người Việt và người Mường. Người Mường ở Thanh Sơn, Yên Lập ngoài thờ thần núi Tản Viên còn thờ núi, gò, rừng ở quê mình, gọi chung là ma. Các thần hay ma núi này không có thần hiệu, sắc phong, khi khấn thì thêm hai chữ “đại vương”.
Cùng với tục thờ núi là thờ thần cây, thần rừng … người Mường gọi là ma cây, ma rừng, ma nương … Đồng bào Mường có trường ca Đẻ đất Đẻ nước, trong đó cây si thần sinh ra người và vạn vật. Cùng với các thần thiên nhiên còn có các nhân thần. Đó là các nhân vật lịch sử có thật được thần thoại hoá. Nhiều xã vùng Mường thờ Đinh Công Mộc – thổ tù theo nghĩa quân Lam Sơn đánh giặc Minh, được phong Vũ Quận Công. Đinh Công Mộc được thờ ở Thạch Khoán (Thanh Sơn), Văn Lương, Tứ Mỹ, Quang Húc, Hùng Đô (Tam Nông). miếu Đồng Rúc (Võ Miếu) thờ Hà Thế Trật, Hà Khả Chinh cũng là thổ tù theo Lam Sơn.

Người Mường Thanh Sơn, Phú Thọ cũng thờ tổ tiên nhưng cũng có một số điểm khác biệt. Trong gia đình, bàn thờ tổ tiên của người Mường được đặt ở chỗ trang trọng nhất (chỗ giữa gian ngoài cùng và gian thứ hai, cạnh cửa váng tông, đặt trên cột chồ – cột cái, nơi có cầu thang của ngôi nhà sàn. Người Mường cúng “ông thờ” trong các dịp tết, nhà mới, cấy, gặt, đám cưới. Ông thờ gồm cả 3 đời ông, cha, cụ và cả ông tổ, bà tổ. Các ban thờ gọi là đáng thờ. Việc thờ cúng tổ nên là quan trọng nhất trong đời sống tín ngưỡng gia đình của người Mường. Tổ liên được coi là thần bản mệnh của gia đình và dòng họ. Do dó, tổ tiên luôn được con cháu tưởng niệm, có trách nhiệm lo lắng, chăm sóc theo tục lệ để được yên vui ở bên kia thế giới, che chở cho con cháu nhằm bảo vệ, duy trì danh dự gia đình và dòng họ. Người Mường gọi những người thân trong gia đình đã mất là “thói thăm”, có nghĩa là “tối tăm”. Nơi người sống là thế giới bên sáng, còn nơi người chết là thế giới bên tối, nên người của hai thế giới không bao giờ nhìn thấy nhau.

Phong tục tập quán của người Mường ở Thanh Sơn, Phú Thọ

Khác với người Kinh và một số tộc người khác, người Mường không thờ cúng tổ tiên theo ngày mất trong năm hay ngày rằm, mồng một hàng tháng mà chỉ thờ cúng vào những dịp như: Tết Nguyên Đán, khánh thành nhà mới, tạ mộ. cưới hỏi. Người Mường lấy ngày chôn người chết làm ngày giỗ vì họ quan niệm rằng người chết khi chưa được chôn xuống đất nghĩa là sợi dây tình cảm giữa người sống và người chết trong gia đình chưa cắt lìa nhau, chỉ khi nào người chết đuợc đào sâu, chôn chặt thì từ đó âm – dương mới thực sự cách biệt. Trong thờ cúng tổ tiên, người con trưởng phải thờ cúng tổ tiên 5 đời, trong khi người con trai thứ khi ra ở riêng thì phải lập một bát hương để thờ cúng cha mình, mỗi đời thể hiện bằng một bát hương được xếp theo hàng ngang. Khác với người phụ nữ Kinh, người phụ nữ Mường sau khi đã đi lấy chồng mà cha mẹ qua đời không có con trai thờ cúng, nhà chồng cho phép họ lập một bàn thờ cha mẹ dẻ. Thường thì bàn thờ này được đặt cạnh cửa vỏng khách và nhỏ hơn bàn thờ của nhà chồng. Đặc biệt, người Mường cũng cho phép được thờ cả tổ tiên bên ngoại, các mâm thờ này dải ở trên đầu gian thứ hai tính từ gian ngoài cùng vào. Họ quan niệm rằng, người thân trong gia đình khi mất đi nhưng vẫn có tình cảm với con cháu như khi còn sống, họ thường xuyên về với con cháu bất cứ lúc nào. Người trong nhà cũng luôn cảm giác rằng có tổ tiên về ở trên bàn thờ để trông coi, che chở cho con cháu làm ăn và được yên lành. Vì vậy, người Mường luôn tâm niệm phải sống tốt để giữ trọn lòng hiếu thảo với tổ tiên như khi họ còn sống. Phải luôn cố gắng sống hòa thuận, yêu thương nhau và chăm chỉ làm ăn. Đăc biệt, họ rất kiêng kỵ sự to tiếng trong gia đình cùng như với cộng đồng. Nếu không thực hiện được những điều đó thì không những bị coi như bất hiếu mà còn bị tổ tiên quở trách, phật lòng, sẽ không phù hộ nữa, thậm chí nếu vi phạm nghiêm trọng, có thể bị tổ tiên trừng phạt.

Ngoài tín ngường thờ tổ tiên, trong gia đình người Mường còn thờ cúng Chàng Wàng (Chàng Wàng Khang Quang Lai Lệnh). Đây là hình thức thờ tự được xuất phát từ truyền thuyết mà người Mường gọi là Anh em nhà Wàng Khang Quan Lai Lệnh. Đây là vị thần bảo vệ cho sự an toàn trong lao động sản xuất và việc xuất hành cho gia đình khỏi bị trộm cướp. Người Mường thờ hai ông ở vị trí tôn nghiêm nhất trong ngôi nhà sàn, thường là nằm trên cửa sổ đầu tiên tính từ gian ngoài cùng cùa nhà sàn (váng tông). Chỗ ngụ cùa hai ông trong ngôi nhà sàn gọi là hénh. Đó là hai chiếc vỉ tre hình chữ nhật được cắm trên mái trước nhà sàn, chỗ trên đầu gian ngoài. Lễ thờ cúng nhân vật này gọi là càu quàng và được các gia đình tiến hành vào Tết Nguyên Đán hoăc đi xa, đi cày, bắt cá, đi săn…

Một số dòng họ Mường ở Thanh Sơn, Yên Lập nhận một con vật (chim hoặc thú) là tổ họ mình và kiêng không ăn thịt chúng, như: Họ Đinh Công, họ Hoàng (Yên Lập) thờ chó; họ Phùng (Yên Lập) thờ hổ; họ Hoàng (Thanh Sơn) thờ chim chóc gió… Ở người Mường, tục thờ tô tem rất sâu đậm, hầu hết các họ đều thờ vật tổ. Nhiều nơi còn cắm cả tranh vật tổ lên mộ người chết.
Người Mường có tục gọi vía lúa. Những năm mất mùa người ta phải đi gọi vía lúa về làng bản của mình, người ta phải làm lễ cúng vía lúa rồi thầy mo hoặc một người hát Rang gọi vía lúa, rủ rê vía lúa về với mình. Từ tín ngưỡng lúa đã hình thành nhiều lễ nghi tập tục tạo nên diện mạo độc đáo của văn hoá tâm linh. Đó là lễ rước nước, lễ khai canh, lễ hạ điền, thượng điền, tết cơm mới, lễ kỳ yên, các nghi lễ cầu mưa chống hạn, tục gọi vía lúa, tục đâm đuống, chàm thau, tục tết dán giấy đỏ vào các nông cụ, tục cúng ông Dằng bà Dõi ở chuồng trâu… Các nghi lễ này rất phổ biến ở các xã vùng người Kinh và người Mường.

Tục “đóng cửa rừng”: Sống ở địa bàn miền núi, người Mường Thanh Sơn rất coi trọng rừng, bởi với họ rừng vừa là thần, vừa là nguồn sống, rừng cho gỗ để làm nhà, dựng đình, dựng miếu; lúc giáp hạt, rừng cho củ lăn, củ mài, củ vớn ăn qua ngày. Rừng là nơi đồng bào làm nương trồng ngô, khoai, sắn… Chính vì gắn bó với rừng, nên tục “đóng” và “mở” cửa rừng được coi là một tín ngưỡng linh thiêng của đồng bào dân tộc Mường. Ý nghĩa sâu xa của tục này chính là thái độ trách nhiệm của con người ứng xử với thiên nhiên. Khi đã “đóng cửa rừng”, mọi người phải “kiêng” vào rừng khai thác lâm sản, nếu ai cố ý vi phạm sẽ bị thần núi trừng phạt. Người Mường Thanh Sơn quan niệm vị thần cai quản rừng núi của đồng bào nơi đây là Tản Viên Sơn Thánh và bộ hạ của ngài là các loài thú dữ. Tục đóng cửa rừng còn liên quan đến một truyền thuyết về nguồn gốc Tản Viên sơn thánh. Bà Đinh Thị Đen, mẹ của Thánh Tản, khi mang thai thần được vài tháng, bà đã sang núi Ba Vì, tìm đến động Lăng Xương (nay là xã Đồng Trung, huyện Thanh Thủy). Sau đó, được dân bản giúp đỡ, bà và Thánh Tản đã kết bạn với bà Ma Thị. Khi bà Ma Thị mất, Thánh Tản trở thành người cai quản các động Mường, được dân bản gọi là chúa các động Mường…

Lễ đóng, mở cửa rừng là nghi thức cúng tế để biến báo với Sơn Thánh, cầu mong tài nguyên rừng ngày càng giàu có và phong phú. Nếu như tục mở cửa rừng diễn ra vào đầu năm mới, sau khi ăn tết xong thì tục đóng cửa rừng được đồng bào thực hiện vào cuối tháng 12 Chạp, tức là trước Tết Nguyên đán. Đồng bào Mường ở Khả Cửu thường làm lễ đóng cửa rừng vào ngày hai lăm tháng Chạp hàng năm. Kể từ ngày này không ai được vào rừng với bất cứ lý do gì. Ngày cấm kéo dài đến mồng bảy tháng Giêng năm mới. Sau ngày đó, mọi người lại được tự do vào rừng với những công việc liên quan đến cuộc sống, mưu sinh. Đồng bào tiến hành lễ đóng cửa rừng cùng một lễ nhỏ cúng ma rừng, ma núi, ma cây nơi mình sống. Còn Tản Viên sơn thánh thường được dân bản thờ ở đình, miếu với ngôi vị cao nhất là tối đẳng thần linh.

Ngày nay, mặc dù cuộc sống đã được cải thiện, khoa học đã giải thích các hiện tượng tự nhiên song đa số đồng bào Mường vẫn duy trì tục đóng cửa rừng, tuy nghi thức có một số thay đổi so với trước đây. Bà con người Mường Thanh Sơn vẫn giữ tục cấm rừng nhưng không còn tế lễ như xưa; còn các xã vùng cao của huyện Thanh Sơn như Khả Cửu thì vẫn gìn giữ nghi thức truyền thống. Mâm cơm cho Lễ đóng cửa rừng được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, lễ vật gồm: Xôi trắng từ gạo nếp nương; gà trống được nuôi tại nhà; chim; thịt lợn; cá suối bắt tại cửa suối Dân, xóm Măng (do 3 con suối hợp nhau suối Sinh, Dân, Dấu); vàng, bạc tượng trưng được làm từ cây giang và cây trẩu (cây giang được tước lạt, cuốn thành vòng kết lại với nhau làm vàng; gỗ cây trẩu chẻ thành bó nhỏ làm bạc); trầu, cau, hoa quả… Mâm cơm được đặt cúng tại nhà, người ngồi cúng hướng ra cổng.
Những tục lệ trong các lễ nghi nông nghiệp tưởng như đơn giản nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong đời sống lao động sản xuất của đồng bào Mường Khả Cửu. Nó phản ánh khá đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của cư dân Mường, thể hiện đời sống tinh thần khá phong phú trong quan niệm về thiên nhiên… Cùng với ý nghĩa văn hóa, tín ngưỡng; lễ đóng cửa rừng còn là sự tri ân thần núi, thần đất, thần nước về một năm mưa thuận gió hòa, rừng yên; đồng thời là một “luật tục” nhắc nhở bà con khi làm nương, làm rẫy không gây cháy rừng; có ý thức bảo vệ rừng, ngăn ngừa mọi hành vi xâm hại tài nguyên rừng, tích cực trồng cây để rừng mãi mãi tươi xanh.

Bên cạnh đó, hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Mường còn chứa đựng trong đó nhiều giá trị nghệ thuật đặc sắc. Những cuộc mo, cuộc hát, các điệu múa…, chính là kho tàng thơ ca, nghệ thuật dân gian phong phú, đa dạng, sử thi Đẻ đất đẻ nước, các làn điệu dân ca như: Các bài hát mỡi, hát mo đám tang… của người Mường là nhũng giá trị văn hoá phi vật thể đã góp phần làm nên bản sắc văn hoá tộc người và góp phần quan trọng làm phong phú bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.

Tết bản Mường

Tết của người Mường Thanh Sơn, Phú Thọ có nhiều phong tục gần giống Tết người Kinh như tục cúng ông Công lên trời, cúng giao thừa, trồng cây nêu, xông nhà, chúc tết, chọn giờ và hướng xuất hành… Tết bản Mường có nhiều trò chơi hội đám như kéo co, chơi đu, đánh đáo, chọi gà và đặc biệt là trò ném còn, nhảy sạp, đâm ống, sắc bùa…
Đồng bào Mường vào tết với lễ tiễn ông Công lên trời ngày 2 tháng Chạp và tới mồng 9 tháng Giêng lại đón ông về. Theo truyện dân gian về sự tích Táo công “2 ông 1 bà”, người ta sắm cho “ông Công” 2 bộ y phục nam và 1 bộ y phục nữ, đồ hàng mã, một con cá chép nướng làm lương ăn đi đường một con cá chép thả vào nước để làm “ngựa” cho Táo công lên trời tâu báo với Ngọc Hoàng mọi việc trần gian. Ngày 25 tháng Chạp, đồng bào trồng nêu, hoá vàng mã cúng thần rừng và ban lệnh cấm rừng. Cây nêu treo vàng thoi và vàng lá, những miếng tre gọt mỏng móc vào nhau, vài miếng tre đan hình cá, hình tam giác nhuộm màu. Cắm nêu cả ở ngoài ruộng, cả ở mồ mả tổ tiên, chuồng trâu, chuồng gà, cũng có nơi đồng bào cắm những cây nứa ngọn có lá từ cọn nước tới các đồ dùng gia đình với ý nghĩ cầu chúc điều tốt lành. Cây nêu cũng được trồng ở cổng, ở đình miếu, cái gì có mái che là có cây nêu và nêu phải cao hơn mái. Mỗi bản có một khu ruộng thờ chỉ thổ tù và thổ lang mới được trồng nêu ở đây. Nêu được hạ vào mồng 7 tháng Giêng.

Ngày 27 tháng Chạp, người Mường lấy 4 cum lúa vắt lên 4 góc dựa bếp để mồng 7 tháng giêng lấy xuống giã, ném cho gà. Ngày 30 tháng Chạp cúng thổ thần và long mạch. Đúng giao thừa đâm đuống, cả làng nhà nào cũng đâm cối đuống. Cối đuống là cối giã hình thuyền, giã bằng chày tay đâm từ trên xuống, thóc cho cả cum vào cối, giã rồi trở ra và rũ, khi thành gạo đổ sang giã cối tròn nhưng đâm đuống giao thừa là đâm cối không. Trong lúc phụ nữ đâm đưống thì nam đốt pháo, gõ chiêng trống. Tiếng trống chiêng hoà với tiếng đâm đuống gây không khí rộn rã tưng bừng cho bản làng. Có lệ rằng nhà thổ lang ở bản và nhà thổ tù ở xã chỉ nổi chiêng trống mà không đâm đuống. Tới giao thừa, người mẹ kín đáo không được nói mà lay các con gái con dâu dậy, phải nhớ là không được lậl chăn các cô. Cối đuống được quét sạch từ trước, người mẹ gác chày vào cối. Làng nổi ba hồi trống, 3 hồi chiêng, khi dứt tiếng chiêng trống, người mẹ gõ ba tiếng đuống rồi cứ thế mẹ con đâm đuống. Cả bản cùng đâm, nhà nhà cùng đâm. Nhà nào nghe trống làng nổi mà còn chưa đâm đuống được là thua chị kém em, làm ăn không thuận lợi trong năm mới. Con dâu chưa có con và con gái chưa chồng không được gõ vào thành cối, do đó thường chỉ có người con dâu trưởng là có vinh dự đó. Đâm đuống có nhịp, cứ ba tiếng vào lòng cối thì lại có một tiếng gõ vào thành cối, thành ra tiếng “Tinh, tinh, tinh – cộc”, nhịp điệu mau dần cho đến khi nhịp hai tiếng đâm xuống lòng và một tiếng gõ thành “Tinh, linh – cộc”. Như vậy đâm đuống ngày tết là hình thức lễ nghi do phụ nữ đảm nhiệm.

Ngày mồng một Tết, gà gáy sáng, người con gái lớn trong nhà lặng lẽ đi kín nước ở khe suối về cho cả nhà rửa mặt và lấy nước cúng. Người 50 tuổi trở lên làm ván gà ra đình gọi là ván lão. Với các cụ từ 60 trở lên, ván gà cúng xong được đem về còn các ván khác cùng ăn chung tại chỗ và cũng có phần mang về.

Mồng một tết có tục xông nhà gọi là xông lon, gia chủ có thể tự xông lấy: đi đâu về cầm một cành lộc, cành hoa về giả làm khách đến thăm. Nói chung xông lon phải đón người vía lành, người này đến nhà thật sớm và nét độc đáo khác với tục người Kinh là có thể đón phụ nữ xông nhà nhưng là phụ nữ có tuổi, đông con, gia đình hoà thuận sung túc. Người xông nhà chào chủ nhà trước. Chủ nhà nói:” Chào ông lái (hay bà lái), năm mới ông lái đến sớm thế, hỏi thăm ông lái (bà lái) gia đình có được mạnh khoẻ, buôn bán có phát tài không?”. Người xông nhà chúc mừng, tự nói mình đi “buôn xuân bán lộc , chúc cho gia chủ của đồng làm ra, của nhà làm nên”… sau đó ăn uống rồi ra về.

Cũng trong ngày mồng Một có lệ cúng ông Dằng bà Dõi ở chuồng trâu. Mâm cơm cúng có một đĩa lòng, một dĩa thịt, một đĩa bánh, ba con tép hay cá (nhất thiết phải có), một bát mật, một cối vàng chẩu, ba chén rượu. Cúng xong cho trâu ăn bánh tẻ, bánh chưng. Cũng trong tục lệ này sáng sớm người già nhất nhà gọi các con vật nuôi trong nhà, trâu thì “nghé ọ, nghé ọ”, gà thì “cục tác” , chó “gâu gâu”, lợn “ủn ỉn” như thế để chúc cho chăn nuôi thịnh vượng.

Sáng mồng Một này cả nhà uống nước sáng dạ (rác gạch lạ) là nước giếng nước khe nhưng đã làm phép. Sang ngày mồng 2, sáng sớm chủ nhà ra ruộng cày một luống cho rõ đến bờ đến góc, làm lễ cúng. Có nhà chỉ mắc ách cho trâu mà không ra ruộng. Đó là lễ khai canh.

Ngày 6 và 7 tháng Giêng, cầu đại tiệc toàn xã, dân tế thần cầu mạnh khoẻ, bình an, no đủ, “tốt mặt hơn người, tươi mặt hơn bạn”. Thổ lang cúng ở xóm, thổ tù cúng ở xã.

Từ ngày mùng 1 Tết cấm động thổ. Mồng 7 mới mở cửa rừng và động thổ. Có nhiều nơi lễ mở cửa rừng là lễ cúng “Sơn quân thần hổ”, bày thịt chó nhưng phần nhiều vẫn là thịt lợn sống. Cũng có nơi còn có tục làm “Tết cầu cá” hay “Hội kéo bạ”. Bạ là dụng cụ đánh cá hình cái nơm nhưng to bằng bằng gian nhà đặt ở quãng nước sâu, xếp cây từ đầu tháng chạp, bùn đất bám vào cá đến ở. Mồng 4 tết cả làng ra kéo bạ đánh cá, tiếng cười nói hò reo vang một khoảng rừng rất vui. Cá ấy để ăn gỏi uống rượu. Người Mường còn có tục ăn tết với thịt trâu nướng thái to bằng bàn tay, nướng tái ăn với lá me chấm dấm chua sào mẻ đặc. Có nhà ngày tết còn làm thịt gà ướp muối tẩm hạt dổi giã nhỏ đem nướng mà không dùng thịt gà luộc hay rang. Các thứ bánh tết của đồng bào là bánh chưng tày, bánh dấm, bánh tẻ, bánh gai, bánh mật, bánh nắng. Bánh chưng tày phải gói khéo cho gân lá rạch một vệt thẳng chia đôi chiếc bánh.

Phong tục tập quán của người Mường ở Thanh Sơn, Phú Thọ

Trong các ngày tết, trai gái vui xuân, hát giao duyên, ném còn, kéo co,hát xường rang, chơi đu đánh vật, múa mới, hát sắc bùa, đánh cồng chiêng.

Các tết khác trong năm của người Mường

Cũng như người Kinh, người Mường có một số tết khác trong năm như tế Hàn thực mồng 3 tháng Ba, tết Đoan ngọ mồng 5 tháng Năm (làm to hơn cả), tết xá tội vong nhân rằm tháng Bảy, tết cơm mới mồng 10 tháng Mười. Người Mường không có tết Trung thu.
Tết mồng 3 tháng Ba cũng ăn bánh trôi như người Kinh nhưng không ăn bánh chay mà làm bánh giầy, mổ gà, vịt, đồ xôi. Đặc biệt phải có 1 trong 4 thứ: Ếch, ngoé, lươn, trạch.
Tết mồng 5 tháng Năm , đồng bào lấy lá gùn pha vào gạo gói như bánh tò te. Làm xôi đỏ hoặc cơm ngũ sắc (vàng, đỏ, trắng, tím, xanh). Nhà nào cũng mổ gà cúng gia tiên. Cây trong vườn cây nào chưa ra quả thì đánh vào gốc hỏi tội bắt ra quả. Ngày này cũng là ngày các thầy lang đi hái thuốc. ở ngoài ruộng, người ta lấy củ dáy đặt ra các tràn ruộng để trừ sâu. Buổi tối trai gái kéo nhau ra ruộng thổi kèn nứa với giọng bi ai và hát ví thật sầu não để cho saàu bọ nghe vỡ bụng mà chết.
Tết cơm mới tổ chức theo tín ngưỡng và hình thức lễ nghi dân tộc: các gia đình mổ lợn, gói bánh chưng, lại có tục lấy vía lúa để gác bếp. Theo tục lệ, vợ chồng gia chủ 4 bông, các con mỗi người một bông kể cả người đi vắng, buộc lại thành một túm. Thổ lang cúng ở xóm rồi tới các gia đình. Lúa nếp gặt về, trai gái đến nhà thổ lang làm cốm, hát đối đáp. Sáng mồng 10 làm lễ ở đình, phần xôi đem về treo lên đáng thờ, hôm sau các nhà làm nếp mới cúng gia tiên. Lễ này được làm to hơn lễ thượng điền.

Tín ngưỡng vòng đời người Mường

Tín ngưỡng vòng đời người là tín ngưỡng và nghi lễ liên quan đến cuộc đời một con người từ lúc sinh tới lúc chết như sự sinh nở, cưới xin (thành thân), thờ thần bản mệnh, lễ tang ma và thờ cúng người chết…. Người Mường Thanh Sơn có nhiều tục lệ kiêng kỵ, nhất là về sinh đẻ. Sau khi sinh có tục cắm cữ ở cửa, có thể là một nọn rơm hoặc một cành ớt, người lạ không được vào. Người Mường cũng có tục cúng mụ như người Kinh, gia đình mời thầy mo đến cũng cho trẻ. Lễ xong thầy cúng buộc chỉ trắng vào cổ tay đứa bé, mỗi vía 1 vòng, trai 7 vòng, gái 9 vòng. Khi đứa bé đầy 1 tuổi lại có lễ cúng đặt tên. Đồ cúng ngoài lễ vật có gương, lược, dao, một bát nước trắng và một bát nước chè. Đặc biệt, người Mường Thanh Sơn có tục làm lễ thay ma cữ (7 ngày hoặc 9 ngày), người nhà lập bàn thờ làm lễ cúng thần linh. Lễ vật có hoa quả, bánh trôi, bánh ít, quần áo giấy và nhất thiết là phải có 7 quả trứng (nếu con trai), 9 quả trứng (nếu con gái). Sau khi cúng, người mẹ bế đứa bé ra trao cho một người khoẻ mạnh, có đủ con trai con gái. Người bố tháo bếp cữ ra rửa sạch cất vào một nơi. Từ sau lễ này, đứa bé có tên gọi chính thức và được công nhận làm người. Lễ thay ma cữ là nghi lễ rất quan trọng trong vòng đời của người Mường. Vì vậy được rất đông thành viên trong cộng đồng tham dự, đặc biệt là những em bé 12 – 13 tuổi.

Tục cưới hỏi của người Mường

Lễ ướm hỏi (khảo thiêng): Trước đây, trai gái Mường ở Thanh Sơn được tự do tìm hiểu bạn đời, trừ tầng lớp lang đạo bị ảnh hưỏng ít nhiều lễ giáo phong kiến nên phải theo quan niệm “Sừng đối sừng, lược đối lược” (tức là môn đăng hộ đối). Sau nhiều lần ti rôống mái (đi tìm hiểu), chọn được người ưng ý, chàng trai mới thông báo cho gia đình biết để nhờ người sang nhà người yêu thưa chuyện. Đây là nghi thức đầu tiên trong tổ chức cưới xin, đồng bào gọi là khảo thiêng, tức đánh tiếng thăm dò hay ướm hỏi.
Giống như người Kinh, người Mường ở Thanh Sơn trong cưới xin cũng cần một người đứng ra làm mối, gọi là ông mờ. Tuy nhiên, ông mờ khác ông mối bà mai của người Kinh ở chỗ: Ông này được nhà trai đặt niềm tin và phó thác trọng trách rất nặng nề, đám cưới thành công hay không phụ thuộc phần lớn vào tài nghệ của ông mờ trong khi đi hỏi, tổ chức gặp gỡ giữa nhà trai với nhà gái và lo liệu mọi việc để đám cưới diễn ra tốt đẹp. Thậm chí, ông phải có trách nhiệm đối với đôi vợ chồng trẻ cho đến khi ông về “thế giới Mường ma” mới chấm dứt vai trò của mình. Vì thế, người Mường rất chú trọng đối tượng sẽ nhờ làm ông mờ. Khi tìm được người, gia đình chàng trai sẽ mang lễ đến nhà để nhờ cậy. Lễ cho ông mờ không có quy định cụ thể mà tuỳ vào điều kiện của từng nhà. Nếu nhà nào khá giả, lễ có gà, lợn; còn nếu khó khăn thì chỉ có con gà, chai rượu cũng đủ.

Người làm ông mờ thường già cả, quảng giao, hoạt bát, am hiểu sự đời, có đủ con trai, con gái, con dâu, con rể, cháu nội, cháu ngoại, có phúc đức, ăn ở hoà thuận, được mọi người kính trọng và uống rượu tài. Việc đánh tiếng không thành công, nhà trai phải có lời tử tế an ủi để ông không phật ý rồi xin phép tìm người khác thay thế. Còn việc đánh tiếng thuận lợi và đi đến hôn nhân, vợ chồng trẻ này phải coi ông mờ như cha và “sống tết, chết giỗ”. Con cái sinh ra cũng phải kính trọng, biết ơn người đã tác thành cho pọ (bố) và cạy (mẹ) mình. Ngày tết lễ, hội hè, con cháu phải biếu ông quà. Khi ông mất, vợ chồng phải có một đầu lợn cúng ông và để tang như con đẻ. Vợ chồng nào không quan tâm kính trọng ông mờ sẽ bị dư luận xã hội chê cười và sau này, con cháu sẽ khó nhờ được người làm mối. Ông mờ cũng coi đôi vợ chồng đó như con, phải có trách nhiệm giúp đỡ, hòa giải mâu thuẫn cho họ trong cuộc sống. Điều này góp phần làm cho hôn nhân của người Mường ở Thanh Sơn diễn ra tốt đẹp, bền vững, quan hệ gia đình – xã hội gắn bó chặt chẽ.

Để tiến hành khảo thiếng, ông mờ đưa đến nhà gái một nòm nhỏ (lễ nhỏ), gồm trầu, cau, thuốc lào. Ông thưa chuyện vối nhà gái cho nhà trai đi lại kết thân. Nếu nhà gái tỏ ý bằng lòng, ông mờ về nhà trai bàn bạc tiếp bưốc thứ hai. Sau ba ngày không có những điềm gở như gà gáy trưa, quạ kêu trong vườn… nhà gái mới đặt lễ vật lên khám thờ làm lễ thông báo cho tổ tiên, ma nhà rằng gia đình sắp có tin vui.

Lễ dạm ngõ (tỉ chầu năm): Đây là bước tiếp sau nghi thức thăm dò, ướm hỏi, giống như dạm ngõ của người Kinh. Lần này, nhà trai cử mẹ, cậu hoặc chú ruột của chàng trai cùng ông mờ đưa đến nhà gái một nòm gồm hơn chục cái bánh nếp, trầu, cau, xôi, gà, rượu. Cũng có khi, lễ còn thêm 2 gói thuốc lào và một vài thức khác. Thay mặt nhà trai, ông mờ tiến hành bàn bạc với đại diện bên nhà gái mọi vấn đề liên quan đến đám cưới như đồ thách cưới, nghi thức cũng như ngày, giờ đón đưa dâu… Đây cũng là dịp để mẹ chàng trai cùng chú bác (đại diện cho họ nội) hoặc cậu (đại diện cho họ ngoại) quan sát, tìm hiểu thêm gia đình và cô dâu tương lai.

Sau nghi lễ này, nhà trai phải lo thêm hai nòm mang sang nhà gái để họ đi báo cho anh em họ hàng: Roõng thiếng: gồm 2 đôi gà từ 1,5 – 2 kg, 4 gói cơm nếp, 20 bát gạo, 20 cái bánh nếp, 10 cơi trầu… Phát khá: gồm 1 con lợn 25 – 50 kg, 1 coong rượu nếp, 20 bát gạo, 20 cái bánh nếp, 100 lá trầu và 1 buồng cau. Nhận hai nòm này, nhà gái chính thức thông báo với bà con họ hàng lần thứ nhất về chuyện con gái mình và về gia cảnh nhà trai. Cũng từ đây, nhà gái chuẩn bị mọi việc cho ngày cưới; còn cô gái cũng gấp rút hoàn thành mọi thứ như chăn, đệm, đai khăn… để làm quà tặng cho nhà trai.

Lễ ăn hỏi (ti chầu cả): Hoàn thành bước dạm ngõ, nhà trai tiến hành một bước nữa là ti chầu cả. Thời gian giữa ti chầu năm đến tỉ chầu cả kéo dài vài ba tuần hoặc hơn một tháng. Ông mờ đưa lễ hỏi sang nhà gái, tuỳ từng vùng, điều kiện kinh tế từng gia đình mà lễ hỏi được sửa soạn to nhỏ khác nhau. Qua khảo sát cho thấy ở Thạch Khoán, Tất Thắng, Võ Miếu… lễ hỏi thường to các xã trong vùng, như: Lợn có thể 2 con và rượu, gạo, gà, trầu, cau đều có phần nhiều hơn.

Nhận lễ đưa sang, nhà gái mổ lợn làm cơm mời nhà trai ăn uống. Cũng trong buổi này, nhà gái sẽ thông báo chính thức đồ thách cưới, cụ thể từng thứ một cho nhà trai chuẩn bị. Người Mường ở Thanh Sơn không có lệ thách cưới bằng quần áo, đồ trang sức hay tiền bạc (trước kia, trừ thổ lang nhưng cũng rất hãn hữu) như ở người Kinh và nhiều dân tộc anh em khác. Đồ thách cưới chủ yếu là lương thực, thực phấm như: Thịt lợn, gạo (nếp, tẻ), bánh trái, rượu, thuốc, chè khô nhằm phục vụ cho nhà gái tiếp đãi bà con họ hàng trong ngày cưới và đôi khi cũng rất nặng nề.

Trong Chúc thư của thổ lang Đinh Thế Thọ (được lập vào thế kỷ XV) ở Võ Miếu có quy định: “Lệ thổ lang cưới vợ cho con trai, dân phải góp một con trâu và 10 vò rượu, 10 đấu gạo nếp… Thổ lang gả chồng cho con gái, dân phải góp một con trâu và 4 thúng cơm…”.

Việc thách cưới được người Mường ở Thanh Sơn coi như lễ của nhà trai để đền đáp, tỏ lòng cám ơn gia đình nhà gái đã nuôi cô dâu khôn lớn, giỏi giang; đồng thời giúp nhà gái một phần đế chuẩn bị cỗ bàn cho ngày cưới. Song nhiều khi lạm dụng, nhà gái còn thách cưới lớn, đòi hỏi quá điều kiện thực tế. Mặc dù vậy, nhà trai vẫn cố gắng tìm mọi cách xoay xở, vay mượn để cho hôn lễ của con trai mình thành công. Đối với người Mường, việc cưới không chỉ là của gia đình mà còn là việc của cả dòng họ, làng xóm nên được mọi người trong họ lo giúp, đặc biệt trong hoàn cảnh khó khăn. Họ giúp nhau vô tư, người giúp không nghĩ đến đòi nợ, còn người nhờ không lo trả là lối sống được hình thành từ xưa còn lưu giữ lại cho đến ngày nay. Vì vậy trong tỏ tình, các chàng trai Mường ở Thanh Sơn còn có câu: “Anh nghèo nhưng họ anh đông. Mỗi người một đồng sẽ cưới được em”.

Để chuẩn bị đồ thách cưới, nhà gái thường gia hạn 2 – 3 năm. Trong thời gian này, chàng rể tương lai phải đến làm lụng cày bừa, cấy hái cho nhà gái. Việc này giúp cho nhà gái tiếp cận, xem xét kỹ nết ăn ở, nết làm của chàng rể. Vì thế, đồng bào có câu: “Gái chọn chồng nhòm bờ ruộng. Trai chọn vợ nhìn cạp váy”. Chàng trai phải tỏ ra là người tháo vát, giỏi đồng áng, biết ứng xử, nếu không sẽ khó được cảm tình của bố mẹ, anh, chị, em cô dâu. Ngày lễ tết, nhà trai phải mang một con lợn 20 kg, 10 kg gạo nếp cho nhà gái. Thời gian thử thách này rất khó khăn cho chàng rể tương lai. Và điều cấm kỵ là trong quá trình tìm hiểu, đôi trai gái không được quan hệ với nhau. Người Mường coi trọng sự trong trắng của cả nam và nữ. Điều này đảm bảo tính bền vững cho hôn nhân của họ. Nếu ai vi phạm, sẽ bị cộng đồng khinh bỉ.

Lễ đón dâu (mừng cưới): Đến ngày lành tháng tốt, theo thoả thuận từ trước, nhà trai tổ chức đón dâu, hay còn gọi là mừng cưới. Lễ cưới được tổ chức linh đình ở cả nhà gái lẫn nhà trai. Từ chiều trưóc ngày đón dâu, chú rể phải đến nhà gái phụ giúp việc sửa soạn cỗ bàn, để tạo thêm mối quan hệ thân mật với mọi người. Từ sáng sớm, nhà trai bắt đầu tổ chức đi đón dâu. Họ mang,theo lễ vật thách cưới cho nhà gái và số người đi bao giờ cũng là số lẻ. Người Mường quan niệm đi lẻ về chẵn, tức khi về có đôi. Bên nhà gái sẽ cử các cô gái, thường là bạn thân của cô dâu, đứng đợi sẵn dọc đường đoàn đón dâu đi qua để chỉ đường, nhằm biểu lộ sự quan tâm của nhà gái.

Đến nhà gái, đoàn đón dâu dừng lại trước cổng để ông mờ làm thủ tục thông báo cho người trong nhà. Ông đem một chai rượu nhỏ cùng cơi trầu vào làm lễ xin nhà gái cho người ra mở cổng. Người nhà gái nhận lễ nhưng chưa mở cổng ngay. Họ sẽ cho những trai gái “giỏi giang” ra hát đối đáp với nhà trai một khoảng thời gian, đủ để trong nhà sửa soạn tươm tất mọi nghi lễ tiếp đón như nước, trầu, cau… Nhà trai phải vượt qua cửa ải đối đáp này mới vào được nhà. Tuy vậy, đây chỉ là nghi thức nhà gái chào đáp lễ chứ không có hàm ý làm khó cho nhà trai. Sau vài lượt đối đáp lại, người ta mở cổng cho đoàn đón dâu vào. Suốt dọc lối đi, nhà gái để sẵn những chậu, vại nước để té vào đoàn, đặc biệt là chú rể và ông mờ. Biết trước nghi lễ này, ông mờ sẽ chuẩn bị sẵn ô hoặc nón cho chú rể.

Lên nhà, chú rể nhanh chóng tách ra cùng vài thanh niên vào bếp làm cơm cho nhà gái cúng tổ tiên. Trong thời gian làm cơm, họ sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhà gái cho ngưòi đến cản công việc của họ như giấu lợn, cho lợn ăn cám để khó làm lòng…. Muốn chuộc lợn, chàng rể phải có một lễ nhỏ hay ít tiền. Trong lúc nấu nướng, họ còn bị giấu đồ, làm tắt bếp nhưng các chàng trai phải luôn tỏ ra vui vẻ, hoà nhã. Việc làm này của bên nhà gái nhằm kéo dài thời gian của nhà trai, nếu các chàng trai làm phật lòng họ, nhà gái sẽ không ăn cỗ, và như thế, nhà trai sẽ không được rước dâu.

Cỗ bàn chuẩn bị xong, nhà gái cúng tổ tiên rồi mời nhà trai ăn uống. Các chàng trai, cô gái bên họ gái có nhiệm vụ mời thật nhiều rượu cho rể và các bạn trai của chàng uống say. Đây là cử chỉ thể hiện tấm lòng nhà gái đáp lại việc chàng rể và các chàng trai đã chịu khó, kiên nhẫn vượt được qua những thử thách trong nấu nướng. Tuy vậy, các chàng trai và cả ông mờ phải tỉnh táo, không được say, nếu không họ sẽ bị bôi nhọ. Dịp này, ông mờ và mọi ngưòi sẽ phải tỏ rõ tài uống rượu của mình. Trong ăn uống vui vẻ, một số người còn hun khói để vừa ăn vừa ho, nước mắt chảy giàn giụa. Cuối buổi mừng cưới, sau khi ông mờ có lời với bên nhà gái, chàng rể chào bố mẹ vợ để xin đón dâu về cũng bị các cô gái đeo mõ trâu vào cổ. Dâu về nhà chồng, người ta chuẩn bị cho cô một con dao rựa, 10 cái chăn bông và một cái ép (giỏ) đựng cơm nắm (khi về đến nhà chồng, cô dâu sẽ mở cơm nắm ra ăn). Đoàn rước dâu về gần nhà, các cô gái bên họ nhà trai đem đuống ra chàm (đâm, gõ) báo hiệu cô dâu đã về cho đến khi dâu, rể làm xong lễ cúng gia tiên, trình ma nhà, vua bếp mới thôi. Chàm đuống là nghi thức đón mừng dâu mới, theo từng nhịp “Cumỉ cumỉ cắc! cum! cum!” nghe rất vui tai. Bước lên cầu thang, cô dâu được mọi người đón sẵn để té nưốc rửa chân, cất nón. Lên sàn, nhà trai trai chiếu đẹp mời cô dâu ngồi cho họ hàng bên rể hát mừng cô dâu mới:

Tối hôm ấy, nhà trai tổ chức vui chơi, hát đối đáp để mọi người mừng đôi vợ chồng trẻ mà chưa làm lễ động phòng. Đêm đến, cô dâu ngủ cùng các bạn gái còn chú rể nằm chung với các bạn trai. Ngày hôm sau, cô dâu lại về nhà cha mẹ đẻ để lấy của hồi môn. Nếu của nhiều, nhà trai sẽ cử người mang giúp về. Người mang giúp có thể là chị dâu, em dâu hoặc chị em gái. Ở nhà chồng ba ngày ba đêm, cô dâu lại về ở nhà mẹ đẻ vài ba hôm và sau đó trở về nhà chồng một tối. Từ đó, cô dâu được đi lại tự do giữa gia đình mình và gia đình chồng đến lúc sinh được con đầu lòng mới ở hẳn bên nhà chồng.

Bên cạnh cưới dâu về, người Mường ở Thanh Sơn còn có tục ở rể giống người Kinh theo sự thỏa thuận giữa hai bên. Nếu gia đình nhà gái hiếm hoi, người con rể có quyền như con trai, mọi chi phí trong lễ cưới do nhà gái chịu. Đổi lại, chàng rể phải đổi họ theo họ bố vợ, con cái sinh ra lấy họ mẹ. Tục ở rể thường chỉ thực hiện với những chàng trai nghèo.

Cưới xin của người Mường ở Thanh Sơn với nhiều nghi lễ là một phần quan trọng liên quan đến chu kỳ đời người. Để đi đến cưới xin, thanh niên Mường có một thời gian dài tìm hiểu chọn lựa bạn đời. Sự áp đặt theo kiểu cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy không mấy phổ biến ở đồng bào. Do đó, hôn nhân ở người Mường Thanh Sơn là kết qua của tình yêu trai gái, giúp cho đời sống vợ chồng bền vững. Nhìn vào tục cưới xin truyền thống của đồng bào dân tộc Mường ở Thanh Sơn cho thấy, tuy có nhiều nghi lễ tốn kém và mất nhiều thời gian nhưng lại hàm chứa các yếu tố tôt đẹp như vai trò của ông mờ trong việc đảm bảo hạnh phúc lứa đôi, hoà giải mâu thuẫn vợ chồng hay nghĩa vụ của cặp vợ chồng đối với ông; sự giúp đỡ của cộng đồng trong cưới xin…

Đám cưới truyền thống của người Mường xưa có rất nhiều những bài hát dân ca mang đậm bản sắc văn hoá tộc người. Trước đây, nhà gái và cả hội hôn thường được nghe bố mẹ chàng trai, chú bác, cô dì của nhà gái cùng hát bài hát mừng nàng dâu mới như lời chào mừng, lời dặn dò, mong đợi của bố mẹ, họ hàng nhà trai với cô dâu mới rất thiết thực. Đáp lại lời chào mừng của gia đình mới, cô dâu cũng nâng chén rượu chúc mừng bố mẹ chồng bằng những lời ca có vần có điệu tận đáy lòng mình như lời hứa sẽ trở thành nàng dâu ngoan, hiếu thảo, chăm lo việc nhà chồng.

Hiện nay, tục lệ cưới xin truyền thống của người Mường ở Thanh Sơn đã thay đổi nhiều. Những tục lệ mê tín được loại bỏ, các bước tiến hành cưới xin đã đơn gian, giảm dần lễ vật thách cưới, ăn uống. Bên cạnh đó, một số tục lệ dần mai một như tục làm mối và vai trò ông mờ, tục hát đối đáp, tục ăn trầu…; những lời ca mượt mà ẩn chứa nhiều giá trị văn hoá tộc người đó đang mất dần. Tiếc rằng, nhiều đám cưới trong vùng người Mường đã không còn duy trì tục lệ hát những bài hát dân ca mang đậm sắc thái tộc người này nữa. Thay cho các làm điệu dân ca dân tộc, nhiều đám cưới của thanh niên Muờng hiện nay chỉ có nhạc rốc, nhạc ráp giống như đám cưới của người Kinh. Trang phục truyền thống của dân tộc Mường cũng đang dần bị thay thế bằng trang phục giống như của người Kinh. Cô dâu người Mường thích được mặc váy trắng nhiều tầng dài quét đất thay cho bộ áo váy truyền thống. Chú rể thì thích đóng bộ com lê, đeo cà vạt, đi giầy da. Trong đám cưới, các chàng trai, cô gái Mường cùng nhau nhảy những điệu nhảy mới quay cuồng trong những bản nhạc mạnh. Việc thách cưới bằng bạc trắng, tục dắt trâu sang nhà gái làm lễ vật xin cưới hỏi và các tập tục cổ như: Ném trấu vào đoàn nhà trai khi đến nhà gái đón dâu, căng dây, đóng cổng đòi tiền nay đã không còn nữa…

Tục tang lễ của người Mường

Thủ tục đám tang người Mường gồm các bước: Báo tang, chôn cất, để tang, sau chôn cất.

Báo tang: Khi gia đình có người qua đời, cùng với việc khâm liệm là việc báo tang cho họ hàng làng bản biết. Thủ tục báo tang có lệ người con dâu trưởng đem chày giã vào đuống một hồi khi cha mẹ chết. Người con dâu bỏ vào đuống 7 bó lúa nếu bố chồng chết hoặc 9 bó nếu mẹ chồng chết. Rồi cùng các con gái, con dâu, mỗi người một chày đâm lấy gạo đúc vào cối của người chết. Mọi người đến nhà có tang, nhìn mặt người chết lần cuối. Chiêng trống gõ liên hồi.

Chôn cất: Người chết được tắm nước lá bưởi rồi đặt nằm ở gian giữa, được đắp chăn và mắc màn cẩn thận. Tang chủ gõ dọng dao dựa vào ngạch nhà một hồi dài rồi gọi hồn thật to: “Ông (hay bà), họ tên… ở đâu thì về nhập xác”. Có nơi tang chủ (là con trai trưởng) đập dọng dao dựa vào khung cửa 3 tiếng rồi kêu to: “Ối trời đất ơi, bố (mẹ) tôi chết rồi” và lúc này con cháu mới được khóc. Việc con cháu khóc cũng phải theo tục lệ, gọi là lễ “phát khốc”. Sau khi tang chủ đã làm thủ tục dập dao vào cửa, chiêng trống đánh nhịp chậm mới phát khốc. Quan tài là một thân cây, sau khi ngả cây, chặt bỏ cành lá ngọn gốc, lấy thân đế dài 1m80 đến 2m xẻ làm đôi, khoét ruột rồi đưa về nhà đám, đặt theo chiều dọc nhà. Có nơi như Tân lập (Thanh Sơn), người ta trùm lên quan tài tấm ván nếu người chết ở tuổi cao và trùm vải trắng nếu người chết còn trẻ. Người ta quan niệm rằng những người thọ cao là sự phát đạt, biểu hiện dương tính, màu đỏ là thuộc dương nên trùm màu đỏ lên áo quan và chắt cũng để tang cụ khăn màu đỏ. Màu trắng thuộc âm, áo quan màu tráng chỉ sự mất mát thuộc âm tính giành cho người chết trẻ. Phủ vải xong, người ta buộc 2 đầu lại thành cái túi bọc áo quan, đặt lên mễ. Trên quan tài đặt một cái mâm có cái bát và chỉ một chiếc đũa, 1 chén rượu, 1 bát nước lã, 1 đĩa trầu cau. Bên dưới mâm theo chiều vai của người quá cố để một chiếc đũa. Trên quan tài để một chiếc đũa cho người đã khuất vì người khuất ăn ít và dưới mâm để một chiếc đũa giành cho quỷ thần ăn chậm. Nếu để cả đôi nó sẽ ăn nhanh, mất phần của người chết.

Nhập quan rồi nhưng chưa phải là đã chôn ngay. Người Mường có tục thờ ma ở trong nhà, có nghĩa là để áo quan ở nhà từ 7 ngày tới 3 tháng rồi mới đưa ra mộ. Cũng tùy theo địa phương và cả theo tình hình kinh tế của gia đình mà số ngày để áo quan trong nhà có khác nhau, có nơi 7 ngày có nơi vài tháng, nay hủ tục này không còn. Trước kia, có nơi còn có tục lệ phân biệt đối xử: Ông ngài, nhà lang chết quan tài dặt dọc theo đòn nóc, còn người dân thường chết, quan tài lại đặt theo chiều ngang nhà theo xà ngang của nóc. Khi đưa quan tài ra cửa, quan tài ông ngài, nhà lang đưa theo cửa chính, gian đầu, có thang xuống, còn dân thì tung vách sau lùa quan tài ra.

Thờ ma trong nhà, chưa đem chôn, ngoài ý nghĩa tục lệ còn có ý nghĩa kinh tế vì nhiều trường hợp, gia chủ không có đủ tiền làm ma “trả nợ miệng’, không dám đem chôn vì sẽ có người buộc mớ lá vào cái cọc cắm ở mộ. Quan tài để trong nhà, hàng ngày phải cúng lễ, mỗi ngày 2 bát cơm, 1 đĩa thịt, 1 đĩa rau và đốt hương khấn mời tận miệng.
Vì tập quán ăn uống nặng nề nên có tục “làm ma khô”,người đã khuất đặt trong quan tài dể ở nơi thoáng gió, khi nào có điều kiện mới tiến hành đưa đám và đem chôn, lúc này xác đã khô. Quan tài đóng gỗ tốt, ghép cẩn thận, đục một lỗ cắm ống bương cho chui qua nóc nhà để thông hơi người chết.

Đưa ma là công việc quan trọng, có nhiều hình thức lễ nghi phiền phức và nhiều lễ tiết, tục lệ dường như chịu ảnh hưởng của lễ tang người Kinh. Việc phát tang chỉ tiến hành khi định được ngày, giờ chôn cất. Sau phát tang dân làng mới phúng viếng và ăn uống cho tới khi chôn cất xong. Việc đưa ma gồm có các bước: Đưa ma từ nhà tới nơi chôn. Dọc đường ma đi có một trạm nghỉ gọi là nhà “Đạo lộ”, quan tài dừng lại ở đây làm lễ rồi lại đi tiếp, đó là lễ thần đưa đường cho hồn ma. Đến nơi an táng, quan tài được chôn xuống huyệt. Việc để tang được bắt đầu từ sau lễ hạ huyệt.

Người Mường không có nghĩa trang mà chôn cất, thường có sự chỉ dẫn của thầy mo. Mộ nhà nọ không chôn gần mộ nhà kia. Khi chôn thực hiện theo lệ “Đầu gối tựa sơn, chân đạp thủy” và cũng không có lệ cải táng nên huyệt sâu. Ở trên mộ có tục để ở phía đầu một hòn đá, ở phía chân 2 hòn đá gọi là “làm nay”. Người ta chôn cạnh mộ một cái hũ làm vại nước cho người chết, 1 chiếc mâm, 4 cái bát, 4 đôi đũa, 2 nồi, 2 niêu, 1 dao bằng gỗ. Cũng có nơi rắc gạo và đỗ quanh mộ nếu đỗ nảy mầm là “Mồ yên mả đẹp”, nếu không nở mầm cho là chết không phải giờ.
Người Mường ở huyện Thanh Sơn còn có tục làm “tờ họ” khi hạ huyệt. Người ta đem theo một tờ giấy khổ rộng có vẽ hình tổ họ. Mỗi họ Mường đều thờ một con vật tổ như chào mào, cuốc, ca ca, thằn lằn, rắn ráo v.v..: và mỗi con vật ấy đều có truyền thuyết gắn với dòng họ. Hình vẽ “Vật tổ” ấy được gọi là “tờ họ”. Người ta cặp nứa ở đầu tờ họ và buộc cán, cắm vào bát cơm có quả trứng luộc bóc vỏ đặt tên chốc quan tài, bát cơm quả trứng được chôn theo quan tài, còn tờ họ đặt trên mộ.

Đưa đám và hình thức tang trở: Đồng bào Mường cũng có tục con trai con gái của người chết khi đưa áo quan đi khỏi nhà thì lăn đất như tục người Kinh và đi giật lùi trước quan tài, khi quan tài đặt lên đòn khiêng rước đi thì đi dưới gầm đòn khiêng. Trong đám tang con trai đội mũ rơm, con gái đội mũ xô bồ, cháu nội đội mũ vặn dây chuối. Đưa ma mẹ, con cháu đi lùi, đưa ma bố con cháu đi thẳng.

Việc để tang: Trai, gái, dâu, rể để trở 2 năm 3 tháng và trai gái không được dựng vợ gả chồng, cháu nội trở 1 năm, chắt 5 tháng, anh em để trở nhau 5 tháng.
Một số nghi lễ trong tang lễ: Trong 3 ngày đầu sau khi chôn cất, gia đình phái đem ra mả cơm, nước, củi đóm gọi là tục “bỏ mả”. Trong 3 ngày ấy làm ma to nhỏ tùy theo từng gia đình, đây là việc “làm hiếu’, nhà giàu có thể mổ trâu để làm hiếu. Sau 3 ngày không mang cơm nước ra mồ gọi là “đóng cửa mả”. Sau trăm ngày có lễ đốt nhà táng.

Thờ 3 tháng 10 ngày sau khi chôn, mỗi ngày 2 bữa cơm, 1 đĩa thịt, 1 đĩa rau, đốt hương khấn “mời miệng” mời thầy mo cúng tiễn ma đi, cho ma 1 mâm, 1 bát, 1 chén, 1 đôi đũa, 2 nồi con, đem ra mộ úp lên chốc mả. Thầy mo gieo đỗ con hay vừng quanh mộ, đỗ có 2 gói: 1 để sống, 1 luộc chín, gói luộc giành cho “thần trùng”, gói sống cho gia chủ khấn lễ thần trùng, đại ý “Qúy quan nhận đỗ”, nếu đỗ này mang về âm cung mà nở thì quan về đòi nợ nhà chủ, nếu không nở không được về đòi”. Ở một số xã ở huyện Thanh Sơn và Yên Lập, cũng trong tục này người ta còn đặt ở 2 đầu mả 2 vại hay 2 vò nước và đặt 4 góc mộ 4 hòn đá.

Người Mường có tục: Cúng tam nhật (3 ngày), cúng 10 ngày, cúng 100 ngày, làm giỗ đầu, làm giỗ hết.

Một số phong tục tập quán của người Mường

Ngoài các nghi lễ, tập tục về tín ngưỡng vòng đời, tín ngưỡng lúa nước, cưới hỏi, tang ma… người Mường Thanh Sơn còn có nhiều tập tục và kiêng kỵ khác: Người Mường có tục “giỗ họ” nghĩa là chỉ cúng tổ 3 đời, ít khi đến tổ 5 đời, nhưng họ nào duy trì được tục cúng tổ 4 đời thì họ hàng góp gạo thịt để làm giỗ chung. Con hay cháu được hưởng ngôi nhà của các cụ để lại thì lo việc giỗ.

Người Mường lấy gian nhà đầu cầu thang lên làm “gian gốc”. Gian này rất quan trọng, có bàn thờ tổ tiên. Đám cưới, gian này xếp 3 mâm “cỗ gốc”. Kể cả khách sang cũng không được ngồi ăn ở gian gốc. Cả tàu lá chuối cắt ra bày cỗ cũng phải để ý đến gốc ngọn. Gốc tàu lá phải quay lên cửa sổ, phía trên giành cho vai trên ngồi. Nếu vô ý để ngọn lá quay lên cửa sổ sẽ bị coi là hỗn láo, thậm chí không cho ăn cỗ nữa. Trong gian gốc người ta coi trọng cột chồ (cột cái gian đầu). Người ta kiêng đóng đinh, đứng dựa cột hoặc ngồi dựa cột chồ. Trên đầu cột chồ ở nhà con trưởng có bàn thờ dòng họ.

Mỗi dòng họ có một loài vật tổ của mình như chim, hổ, chó, khỉ… Cho đến nay các dòng họ người Mường vẫn giữ tục kiêng không giết và ăn thịt vật tổ của họ mình. Ngoài ra còn có rất nhiều tục kiêng kỵ như:
– Khi chưa làm lễ động thổ kiêng không được bắc nước vào ruộng.
– Kiêng khách và con rể ngồi quay lưng vào bàn thờ.
– Kiêng nằm ngang trước bàn thờ mà đầu phải luôn quay lên bàn thờ.
– Kiêng đánh mắng con cháu nếu không may vỡ bát đĩa.
– Nhà có tang cha mẹ không được ra đình đám, đám cưới (giống người Kinh).
– Khi chào người trên kiêng để mũ nón trên đầu.
– Kiêng để vết trôn nồi trên bếp tro, bắc nồi ra phải gạt phẳng gio bếp.
– Kiêng để quai nồi chĩa vào giữa bếp và chĩa thẳng vào mâm ăn.
– Kiêng nằm ghếch chân lên cột chồ.
– Sào nhà không được hướng Bắc- Tây mà phải để gốc đằng Đông Nam, ngọn phía Tây Bắc…vv và rất nhiều kiêng kỵ khác

Xã Tất Thắng trong lễ tế Tản Viên có tục hèm cơm đỏ cơm đen bằng lúa nếp nương cũng là để ghi nhớ Tản Viên dã dạy dân trồng lúa.

Tín ngưỡng với nhu cầu tinh thần, thường là lĩnh vực chậm biến đổi bởi nó ăn sâu, bắt rễ trong tâm lý, trở thành thói quen trong sinh hoạt cùa con người. Tuy nhiên, cùng với những đổi thay dang diễn ra hàng ngày, tín ngưỡng Mường cũng có những biến đổi tất yếu: Ngôi nhà sàn vốn có những không gian thiêng (voóng tôông cùng với bàn thờ tô tiên, lò bếp với ba hòn nục, cột cái gần bếp…) khi chuyển sang ở nhà bê tông mái ngói hoặc mái bằng, mạc nhiên những không gian thiêng này không còn như xưa, thậm chí không còn hoặc buộc phải thay đổi. Chẳng hạn, trong đám tang cha, đâu còn voóng tông (cửa sổ gian ngoài, nơi đặt bàn thờ tổ tiên) để người con trai cả thực hiện tập tục chặt ba nhát vào thành cửa như dấu hiệu bắt đầu tang lễ và nhận trách nhiệm thay cha lo việc thờ cúng tổ tiên; quan tài người quá cố trước kia phải đưa ra qua voóng tôông với đầy đủ ý nghĩa lâm linh cùa nó, nay phải khiêng qua cửa chính; vị trí đặt bàn thờ cũng mặc nhiên thay đổi cho phù hợp với không gian của ngôi nhà xây. Cũng không còn cột cái cạnh bếp – nơi thường buộc những cây lúa nương (giữ vía lúa) hoặc đặt những quả bí bên cạnh cột (cầu mong no ấm, đông con nhiều cháu) trong lễ mừng nhà mới nữa.

Giống như người Kinh, người Mường cũng thờ vua bếp. Tuy nhiên việc thờ cúng vua bếp ở người Mường không phải vào ngày 23 tháng Chạp mà là vào ngày thờ cúng tổ tiên trong dịp Tết Nguyên Đán. Việc thờ Thổ Công khá phổ biến trong các gia đình người Mường. Vào bất cứ ngôi nhà nào của người Mường, chúng ta đều thấy ở sân trước hoặc ở đầu nhà có một bàn thờ nhỏ làm bằng tre, mái tranh. Đấy là nơi thờ Thổ Công, vị thần cai quản đất đai của gia đình. Khác với người Kinh, Thổ Công được thờ bằng một bát hương riêng và có khi được đặt cùng với bàn thờ gia tiên. Nơi thờ Thổ Công của người Mường bao giờ cũng chỉ được làm một mái, lý do dược người dân Mường kể lại như sau: Hai anh em nhà thần Thổ Công là người Mường Trời được vua trời phái xuống để trông nom các phần đất cho từng gia đình sinh sống. Hai anh em bàn nhau chọn ngày tốt để dựng một ngôi nhà cho mình. Trong lúc chờ chọn ngày tốt làm nhà thì hai anh em phải dựng một túp lều ở tạm, túp lều đó chỉ có một mái. Sau đó họ chọn mãi vẫn không được ngày tốt, chọn được ngày tốt đối với anh nhưng lại không tốt với em và ngược lại. Vì thế mà không thế chọn được ngày ưng ý, về sau họ quyết định ở luôn trong căn nhà một mái như vậy. Do đó, nơi dùng làm nhà thờ Thổ Công trong các gia đình người Mường bao giờ cũng chỉ có một mái. Vào dịp tết, giỗ… lễ cúng Thổ Công được các gia đình đặt lên miếu thờ ba vị Thổ Công các lễ vật để cầu mong sự an lành cho gia dinh.

Như vậy, cùng với tín ngưỡng cộng đồng, các hình thức thờ cúng trong gia đình chi phối toàn bộ hoạt động trong những ngày lễ tết cùa người Mường. Sự đa dạng về các hình thức thờ cúng trong gia dinh người Mường được thể hiện như là một đặc điểm nổi trội trong văn hóa tinh thần cùa họ. Các hoạt dông này không chỉ mang ý nghĩa giáo dục truyền thống gia đình đối với các thế hệ con cháu, mà còn thể hiện lòng biết ơn những người có công sinh thành, bảo vệ và mang đến cho họ cuộc sống.

Tuy nhiên, ngày nay các nghi thức và hình thúc thờ cúng trong gia dinh người Mường cũng có nhiều sự khác biệt so với cổ truyền. Có rất nhiều yếu tố tác động khác nhau, nhưng trước hết là sự tác động của xã hội hiện đại đã làm thay đổi về cơ bản cơ cấu kinh tế của mỗi gia dinh. Sự tác động trực tiếp vào cơ chế kinh tế tự cấp, tự túc vốn đã tồn tại từ ngàn xưa của người Mường và làm biến đổi khá nhiều các yếu tố của nền kinh tế truyền thống. Sự biến đổi đó tuy diễn ra chậm chạp nhưng đã có những hệ quả tương đối rõ ràng về các giá trị về văn hóa. Nó thể hiện trong sự thay đổi các yếu tố về quyền thừa kế tài sản cho con trat, các luật tục trong việc phân chia ruộng đất, phân công lao dộng… là những yếu tố bất biến trong xã hội Mường có truyền. Tất cả tác động đó đều liên quan trực tiếp tới điều kiện của các gia đình trong thực hành tín ngưỡng, quyết định sự phong phú, hay nghèo nàn trong các nghi thức thờ cúng.

Có thế nói, về cơ bản các hình thức tín ngưỡng thờ cúng trong gia đình người Mường vẫn được duy trì theo truyền thống xưa. Việc thờ cúng tổ tiên vẫn được các gia đình thực hiện trong các dịp lễ tết, các nghi thức thờ thần bản mệnh và Thổ Công cũng vậy. Tuy nhiên, nghi thức đã được vận dụng vào thực tế hoàn cành của từng gia đình. Trước đây, tục lệ về đồ cúng các thần linh bắt buộc phài có ba mâm: Một mâm dành cho bố mẹ đã khuất, mâm thứ hai dành cho các vị tổ tiên họ nội, màm thứ ba dành cho các vị tổ tiên họ ngoại. Thịt lợn, gà phải có đủ các bộ phận vì theo quan niệm, nếu thiếu là thể hiện sự không tôn trọng với ông bà, tổ tiên nội ngoại… thì nay đã được nhiều gia đình đơn giản hóa bằng cách cúng chung một mâm với các đồ cúng lễ tùy theo điều kiện cùa mỗi gia đình.

Điều nhận thấy rõ nhất sự biến đổi trong các nghi lễ thờ cúng là khi người phụ nữ sinh nở. Với niềm tin thiêng liêng về sự gắn bó giữa tổ tiên với số phận của mỗi thành viên gia đình, mỗi khi có đứa trẻ ra dời, người Mường không bao giờ quên làm lễ trình báo tổ tiên để cầu xin sự phù hộ, che chở. Trước đây người phụ nữ thường sinh đẻ ở nhà, bất kể dù mùa đông hay mùa hè đều phải ngồi bên bếp lửa, các cửa được đóng kín, điều kiện vệ sinh rất hạn chế, cộng thêm vào dó là các nghi thức cúng lễ thường rườm rà, tốn kém, ảnh hưởng đến sức khỏe và kinh tế của gia đình. Ngày nay các sản phụ được đưa đến trạm xá, được hướng dẫn các kiến thức nuôi dạy con và các thù tục rườm ra đã được thay thế bằng sự giản tiện, đôi lúc chỉ mang tính nghi thức mà thôi.

Không có một nền văn hóa nào đang tồn tại mà không dựa vào truyền thống vốn có từ xa xưa. Tuy nhiên thực tế cho thấy, đối với gia đình người Mường thì các phong tục tập quán cổ xưa đã được bà con kế thừa một cách có chọn lọc. Phần lớn các hủ tục trong nghi lễ gây ảnh hưởng tới kinh tế đều bị loại bỏ. Ngược lại những phong tục tốt được lưu giữ, thậm chí có những giá trị hoàn toàn mới được phát triển trên cơ sở truyền thống lâu đời của tộc người. Ngày nay, mặc dù sống trong xu thế của nền kinh tế mới, việc các gia đình người Mường vẫn còn lưu giữ được những giá trị truyền thống tốt đẹp góp phần không nhỏ vào việc duy trì kết cấu gia đình ổn định, một cộng đồng đoàn kết trên tinh thần yêu quê hương, xứ sở, bản Mường, gắn với thiên nhiên hùng vĩ, hòa đồng và hướng về cội nguồn dân tộc.

Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nói trên, sinh hoạt tín ngưỡng của người Mường cũng đã và đang gây ra những tác động tiêu cực không nhỏ cho đời sống xã hội. Với quan niệm có một thế giới thần linh cai quản vũ trụ và con người, người Mường sống phụ thuộc nhiều vào thế giới các thần linh mà xem nhẹ năng lực sáng tạo của bản thân mình. Bên cạnh đó, sinh hoạt tín ngưỡng rất dễ bị đan xen, trà trộn vào đó những niềm tin mù quáng và các hành vi tín ngưỡng phi văn hoá, phản giá trị.

Đối với người Mường, hệ thống tín ngưỡng có vai trò rất quan trong trong đời sống xã hội. Với tư cách là một yếu tố của bản sắc văn hóa tộc người, thông qua hệ thống tín ngưỡng, chúng ta có thể thây đươc thế giới quan, nhân sinh quan, phong tục tập quán, tâm hồn, tình cảm người Mường. Các loại hình tín ngưỡng hiện có tác động sâu sắc đến đời sống xâ hội của đồng bào Mường trên cả hai chiều hướng: Tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực, các loại hình tín ngưỡng của người Mường tồn tại lâu dài cùng với thời gian lịch sử, đã phần nào đáp ứng nhu cầu nhận thức, nhu cầu sinh hoạt văn hoá, tâm linh, tinh thần của đồng bào. Thông qua sinh hoạt tín ngưỡng, người Mường có thể tìm thấy lịch sử hình thành, phát triển của dân tộc mình, đồng thời lý giải được câu hỏi muôn thuở của bất kỳ cộng đồng dân tộc nào, đó là khi chết người Mường sẽ đi về đâu. Có thể nói, hệ thống tín ngưỡng của người Mường đã phần nào lột tả được thế giới quan, nhân sinh quan của người Mường. Với các loại hình tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, thờ Quốc Mẫu Vua Bà, thờ Thần núi Tản Viên, thờ Thành hoàng cùng rất nhiều những tín ngưỡng, lễ nghi nông nghiệp khác đã phần nào thoả mãn nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần, tâm linh của đồng bào dân tộc Mường.

Bên cạnh đó, hệ thống tín ngưỡng của người Mường đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn giá trị văn hoá truyền thống, giáo dục và hướng con người đến những giá trị Chân – Thiện – Mỹ.

Tín ngưỡng thờ cúng của người Mường

Từ xa xưa, người Mường đã quan niệm vũ trụ là một hệ thống gồm ba tầng, bốn thế giới. Tầng cao nhất là thế giới của Mường Trời (Mường Klơi) là nơi trú ngụ của Vua Trời và các phò tá của Vua Trời. Tầng giũa là Mường Pưa (Mương Pưa) – là thế giới của người sống, tập hợp lại thành các gia đình, xóm và mường. Tầng thứ ba có hai thế giới là Mường Pưa Tín (Mương Pưa Tín) ở dưới mặt đất và Mường Vua Khú (Mương Bua Khú) ở đáy nước. Thế giới Mường Pưa Tín ở bên dưới măt đất có lối thông lên thế giới của người trên mặt đất. Mường Pưa Tín không phải là âm ty, không phải là thế giới siêu nhiên, mà là thế giới của những người tí hon, gia súc cũng tí hon. Thế giới của Vua Khú là vương quốc của bọn khú dưới quyền cai quản của Vua Khú. Trong hệ thống vũ trụ ba tầng, bốn thế giới của người Mường nói trên, thì Mường Pưa – thế giới của người sống là trung tâm. Mọi đường đi đều xuất phát từ Mường Pưa, ba thế giới còn lại cũng đều quy tụ về đây. Tuy nhiên, mỗi thế giới trong quan niệm của người Mường lại có một bản chất riêng, do đó sự thông thương giữa các thế giới bị hạn chế. Mường Pưa là thế giới tự nhiên, là “cõi sống” của người Mường. Mường Pưa Tín, vốn thông thương với Mường Pưa, cũng là thế giới tự nhiên nhưng thấp kém hơn. Mường Trời là thế chuyện vui, buồn thì tất cả bản các gia đình trong bản Mường không phân biệt họ tộc hay không họ tôc đều chung tay chia sẻ cả vể vật chất lẫn tinh thần. Quan niệm việc hàng xóm là việc của mình, việc nhà mình là việc của hàng xóm đã trở thành lối sống ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người Mường. Đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống đã trở thành một luật lệ mà mỗi thành viên trong cộng đồng đều luôn phải có ý thức tự giác thực hiện. Thêm vào đó, tham gia vào các loại hình sinh hoạt tín ngưỡng khiến cho cộng đồng bản Mường thêm tôn trọng nội quy, luật tục, các thành viên trong cộng đồng thêm đoàn kết, gắn bó với nhau hơn.

Người Mường ở Thanh Sơn, Phú Thọ, ngoài tín ngưỡng thờ tổ tiên dòng họ còn có tín ngưỡng thờ tổ tiên của làng xã, dân tộc là thờ thành hoàng, thờ vua, thờ thần. Mỗi làng đều thờ thành hoàng là những người sáng lập làng hoặc thần bảo hộ cho cuộc sống của dân làng. Người Kinh, người Mường cùng thờ tổ tiên chung của dân tộc là các vua Hùng, các tướng lĩnh nhà Hùng, những người có công dựng nước và giữ nước. Tín ngưỡng thờ các vua Hùng tồn tại rất sâu đậm ở Phú Thọ và trở thành bản sắc nguồn cội của văn hoá dân gian vùng đất Tổ. Tản Viên Sơn thánh và các vị thần núi Tản được thờ phổ biến ở cả vùng người Kinh và người Mường – hai dân tộc có chung nguồn gốc bản địa từ cư dân Văn Lang thời các vua Hùng. Trong đó tập trung đậm đặc nhất ở mạn sông Đà Thanh Thuỷ, Thanh Sơn, tức là vùng đối diện với núi Tản Viên bên kia sông Đà, nơi cả 2 dân tộc Kinh, Mường sinh sống. Hầu hết các xã tập trung nhiều đồng bào Mường Phú Thọ đều có đình, miếu thờ cúng Tản Viên sơn thánh, được đồng bào gọi tắt là Tản Viên sơn. Thờ núi là tục thờ phổ biến ở người Việt và người Mường. Người Mường ở Thanh Sơn, Yên Lập ngoài thờ thần núi Tản Viên còn thờ núi, gò, rừng ở quê mình, gọi chung là ma. Các thần hay ma núi này không có thần hiệu, sắc phong, khi khấn thì thêm hai chữ “đại vương”.
Cùng với tục thờ núi là thờ thần cây, thần rừng … người Mường gọi là ma cây, ma rừng, ma nương … Đồng bào Mường có trường ca Đẻ đất Đẻ nước, trong đó cây si thần sinh ra người và vạn vật. Cùng với các thần thiên nhiên còn có các nhân thần. Đó là các nhân vật lịch sử có thật được thần thoại hoá. Nhiều xã vùng Mường thờ Đinh Công Mộc – thổ tù theo nghĩa quân Lam Sơn đánh giặc Minh, được phong Vũ Quận Công. Đinh Công Mộc được thờ ở Thạch Khoán (Thanh Sơn), Văn Lương, Tứ Mỹ, Quang Húc, Hùng Đô (Tam Nông). miếu Đồng Rúc (Võ Miếu) thờ Hà Thế Trật, Hà Khả Chinh cũng là thổ tù theo Lam Sơn.

Người Mường Thanh Sơn, Phú Thọ cũng thờ tổ tiên nhưng cũng có một số điểm khác biệt. Trong gia đình, bàn thờ tổ tiên của người Mường được đặt ở chỗ trang trọng nhất (chỗ giữa gian ngoài cùng và gian thứ hai, cạnh cửa váng tông, đặt trên cột chồ – cột cái, nơi có cầu thang của ngôi nhà sàn. Người Mường cúng “ông thờ” trong các dịp tết, nhà mới, cấy, gặt, đám cưới. Ông thờ gồm cả 3 đời ông, cha, cụ và cả ông tổ, bà tổ. Các ban thờ gọi là đáng thờ. Việc thờ cúng tổ nên là quan trọng nhất trong đời sống tín ngưỡng gia đình của người Mường. Tổ liên được coi là thần bản mệnh của gia đình và dòng họ. Do dó, tổ tiên luôn được con cháu tưởng niệm, có trách nhiệm lo lắng, chăm sóc theo tục lệ để được yên vui ở bên kia thế giới, che chở cho con cháu nhằm bảo vệ, duy trì danh dự gia đình và dòng họ. Người Mường gọi những người thân trong gia đình đã mất là “thói thăm”, có nghĩa là “tối tăm”. Nơi người sống là thế giới bên sáng, còn nơi người chết là thế giới bên tối, nên người của hai thế giới không bao giờ nhìn thấy nhau.

Phong tục tập quán của người Mường ở Thanh Sơn, Phú Thọ

Khác với người Kinh và một số tộc người khác, người Mường không thờ cúng tổ tiên theo ngày mất trong năm hay ngày rằm, mồng một hàng tháng mà chỉ thờ cúng vào những dịp như: Tết Nguyên Đán, khánh thành nhà mới, tạ mộ. cưới hỏi. Người Mường lấy ngày chôn người chết làm ngày giỗ vì họ quan niệm rằng người chết khi chưa được chôn xuống đất nghĩa là sợi dây tình cảm giữa người sống và người chết trong gia đình chưa cắt lìa nhau, chỉ khi nào người chết đuợc đào sâu, chôn chặt thì từ đó âm – dương mới thực sự cách biệt. Trong thờ cúng tổ tiên, người con trưởng phải thờ cúng tổ tiên 5 đời, trong khi người con trai thứ khi ra ở riêng thì phải lập một bát hương để thờ cúng cha mình, mỗi đời thể hiện bằng một bát hương được xếp theo hàng ngang. Khác với người phụ nữ Kinh, người phụ nữ Mường sau khi đã đi lấy chồng mà cha mẹ qua đời không có con trai thờ cúng, nhà chồng cho phép họ lập một bàn thờ cha mẹ dẻ. Thường thì bàn thờ này được đặt cạnh cửa vỏng khách và nhỏ hơn bàn thờ của nhà chồng. Đặc biệt, người Mường cũng cho phép được thờ cả tổ tiên bên ngoại, các mâm thờ này dải ở trên đầu gian thứ hai tính từ gian ngoài cùng vào. Họ quan niệm rằng, người thân trong gia đình khi mất đi nhưng vẫn có tình cảm với con cháu như khi còn sống, họ thường xuyên về với con cháu bất cứ lúc nào. Người trong nhà cũng luôn cảm giác rằng có tổ tiên về ở trên bàn thờ để trông coi, che chở cho con cháu làm ăn và được yên lành. Vì vậy, người Mường luôn tâm niệm phải sống tốt để giữ trọn lòng hiếu thảo với tổ tiên như khi họ còn sống. Phải luôn cố gắng sống hòa thuận, yêu thương nhau và chăm chỉ làm ăn. Đăc biệt, họ rất kiêng kỵ sự to tiếng trong gia đình cùng như với cộng đồng. Nếu không thực hiện được những điều đó thì không những bị coi như bất hiếu mà còn bị tổ tiên quở trách, phật lòng, sẽ không phù hộ nữa, thậm chí nếu vi phạm nghiêm trọng, có thể bị tổ tiên trừng phạt.

Ngoài tín ngường thờ tổ tiên, trong gia đình người Mường còn thờ cúng Chàng Wàng (Chàng Wàng Khang Quang Lai Lệnh). Đây là hình thức thờ tự được xuất phát từ truyền thuyết mà người Mường gọi là Anh em nhà Wàng Khang Quan Lai Lệnh. Đây là vị thần bảo vệ cho sự an toàn trong lao động sản xuất và việc xuất hành cho gia đình khỏi bị trộm cướp. Người Mường thờ hai ông ở vị trí tôn nghiêm nhất trong ngôi nhà sàn, thường là nằm trên cửa sổ đầu tiên tính từ gian ngoài cùng cùa nhà sàn (váng tông). Chỗ ngụ cùa hai ông trong ngôi nhà sàn gọi là hénh. Đó là hai chiếc vỉ tre hình chữ nhật được cắm trên mái trước nhà sàn, chỗ trên đầu gian ngoài. Lễ thờ cúng nhân vật này gọi là càu quàng và được các gia đình tiến hành vào Tết Nguyên Đán hoăc đi xa, đi cày, bắt cá, đi săn…

Một số dòng họ Mường ở Thanh Sơn, Yên Lập nhận một con vật (chim hoặc thú) là tổ họ mình và kiêng không ăn thịt chúng, như: Họ Đinh Công, họ Hoàng (Yên Lập) thờ chó; họ Phùng (Yên Lập) thờ hổ; họ Hoàng (Thanh Sơn) thờ chim chóc gió… Ở người Mường, tục thờ tô tem rất sâu đậm, hầu hết các họ đều thờ vật tổ. Nhiều nơi còn cắm cả tranh vật tổ lên mộ người chết.
Người Mường có tục gọi vía lúa. Những năm mất mùa người ta phải đi gọi vía lúa về làng bản của mình, người ta phải làm lễ cúng vía lúa rồi thầy mo hoặc một người hát Rang gọi vía lúa, rủ rê vía lúa về với mình. Từ tín ngưỡng lúa đã hình thành nhiều lễ nghi tập tục tạo nên diện mạo độc đáo của văn hoá tâm linh. Đó là lễ rước nước, lễ khai canh, lễ hạ điền, thượng điền, tết cơm mới, lễ kỳ yên, các nghi lễ cầu mưa chống hạn, tục gọi vía lúa, tục đâm đuống, chàm thau, tục tết dán giấy đỏ vào các nông cụ, tục cúng ông Dằng bà Dõi ở chuồng trâu… Các nghi lễ này rất phổ biến ở các xã vùng người Kinh và người Mường.

Tục “đóng cửa rừng”: Sống ở địa bàn miền núi, người Mường Thanh Sơn rất coi trọng rừng, bởi với họ rừng vừa là thần, vừa là nguồn sống, rừng cho gỗ để làm nhà, dựng đình, dựng miếu; lúc giáp hạt, rừng cho củ lăn, củ mài, củ vớn ăn qua ngày. Rừng là nơi đồng bào làm nương trồng ngô, khoai, sắn… Chính vì gắn bó với rừng, nên tục “đóng” và “mở” cửa rừng được coi là một tín ngưỡng linh thiêng của đồng bào dân tộc Mường. Ý nghĩa sâu xa của tục này chính là thái độ trách nhiệm của con người ứng xử với thiên nhiên. Khi đã “đóng cửa rừng”, mọi người phải “kiêng” vào rừng khai thác lâm sản, nếu ai cố ý vi phạm sẽ bị thần núi trừng phạt. Người Mường Thanh Sơn quan niệm vị thần cai quản rừng núi của đồng bào nơi đây là Tản Viên Sơn Thánh và bộ hạ của ngài là các loài thú dữ. Tục đóng cửa rừng còn liên quan đến một truyền thuyết về nguồn gốc Tản Viên sơn thánh. Bà Đinh Thị Đen, mẹ của Thánh Tản, khi mang thai thần được vài tháng, bà đã sang núi Ba Vì, tìm đến động Lăng Xương (nay là xã Đồng Trung, huyện Thanh Thủy). Sau đó, được dân bản giúp đỡ, bà và Thánh Tản đã kết bạn với bà Ma Thị. Khi bà Ma Thị mất, Thánh Tản trở thành người cai quản các động Mường, được dân bản gọi là chúa các động Mường…

Lễ đóng, mở cửa rừng là nghi thức cúng tế để biến báo với Sơn Thánh, cầu mong tài nguyên rừng ngày càng giàu có và phong phú. Nếu như tục mở cửa rừng diễn ra vào đầu năm mới, sau khi ăn tết xong thì tục đóng cửa rừng được đồng bào thực hiện vào cuối tháng 12 Chạp, tức là trước Tết Nguyên đán. Đồng bào Mường ở Khả Cửu thường làm lễ đóng cửa rừng vào ngày hai lăm tháng Chạp hàng năm. Kể từ ngày này không ai được vào rừng với bất cứ lý do gì. Ngày cấm kéo dài đến mồng bảy tháng Giêng năm mới. Sau ngày đó, mọi người lại được tự do vào rừng với những công việc liên quan đến cuộc sống, mưu sinh. Đồng bào tiến hành lễ đóng cửa rừng cùng một lễ nhỏ cúng ma rừng, ma núi, ma cây nơi mình sống. Còn Tản Viên sơn thánh thường được dân bản thờ ở đình, miếu với ngôi vị cao nhất là tối đẳng thần linh.

Ngày nay, mặc dù cuộc sống đã được cải thiện, khoa học đã giải thích các hiện tượng tự nhiên song đa số đồng bào Mường vẫn duy trì tục đóng cửa rừng, tuy nghi thức có một số thay đổi so với trước đây. Bà con người Mường Thanh Sơn vẫn giữ tục cấm rừng nhưng không còn tế lễ như xưa; còn các xã vùng cao của huyện Thanh Sơn như Khả Cửu thì vẫn gìn giữ nghi thức truyền thống. Mâm cơm cho Lễ đóng cửa rừng được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, lễ vật gồm: Xôi trắng từ gạo nếp nương; gà trống được nuôi tại nhà; chim; thịt lợn; cá suối bắt tại cửa suối Dân, xóm Măng (do 3 con suối hợp nhau suối Sinh, Dân, Dấu); vàng, bạc tượng trưng được làm từ cây giang và cây trẩu (cây giang được tước lạt, cuốn thành vòng kết lại với nhau làm vàng; gỗ cây trẩu chẻ thành bó nhỏ làm bạc); trầu, cau, hoa quả… Mâm cơm được đặt cúng tại nhà, người ngồi cúng hướng ra cổng.
Những tục lệ trong các lễ nghi nông nghiệp tưởng như đơn giản nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong đời sống lao động sản xuất của đồng bào Mường Khả Cửu. Nó phản ánh khá đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của cư dân Mường, thể hiện đời sống tinh thần khá phong phú trong quan niệm về thiên nhiên… Cùng với ý nghĩa văn hóa, tín ngưỡng; lễ đóng cửa rừng còn là sự tri ân thần núi, thần đất, thần nước về một năm mưa thuận gió hòa, rừng yên; đồng thời là một “luật tục” nhắc nhở bà con khi làm nương, làm rẫy không gây cháy rừng; có ý thức bảo vệ rừng, ngăn ngừa mọi hành vi xâm hại tài nguyên rừng, tích cực trồng cây để rừng mãi mãi tươi xanh.

Bên cạnh đó, hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Mường còn chứa đựng trong đó nhiều giá trị nghệ thuật đặc sắc. Những cuộc mo, cuộc hát, các điệu múa…, chính là kho tàng thơ ca, nghệ thuật dân gian phong phú, đa dạng, sử thi Đẻ đất đẻ nước, các làn điệu dân ca như: Các bài hát mỡi, hát mo đám tang… của người Mường là nhũng giá trị văn hoá phi vật thể đã góp phần làm nên bản sắc văn hoá tộc người và góp phần quan trọng làm phong phú bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.

Tết bản Mường

Tết của người Mường Thanh Sơn, Phú Thọ có nhiều phong tục gần giống Tết người Kinh như tục cúng ông Công lên trời, cúng giao thừa, trồng cây nêu, xông nhà, chúc tết, chọn giờ và hướng xuất hành… Tết bản Mường có nhiều trò chơi hội đám như kéo co, chơi đu, đánh đáo, chọi gà và đặc biệt là trò ném còn, nhảy sạp, đâm ống, sắc bùa…
Đồng bào Mường vào tết với lễ tiễn ông Công lên trời ngày 2 tháng Chạp và tới mồng 9 tháng Giêng lại đón ông về. Theo truyện dân gian về sự tích Táo công “2 ông 1 bà”, người ta sắm cho “ông Công” 2 bộ y phục nam và 1 bộ y phục nữ, đồ hàng mã, một con cá chép nướng làm lương ăn đi đường một con cá chép thả vào nước để làm “ngựa” cho Táo công lên trời tâu báo với Ngọc Hoàng mọi việc trần gian. Ngày 25 tháng Chạp, đồng bào trồng nêu, hoá vàng mã cúng thần rừng và ban lệnh cấm rừng. Cây nêu treo vàng thoi và vàng lá, những miếng tre gọt mỏng móc vào nhau, vài miếng tre đan hình cá, hình tam giác nhuộm màu. Cắm nêu cả ở ngoài ruộng, cả ở mồ mả tổ tiên, chuồng trâu, chuồng gà, cũng có nơi đồng bào cắm những cây nứa ngọn có lá từ cọn nước tới các đồ dùng gia đình với ý nghĩ cầu chúc điều tốt lành. Cây nêu cũng được trồng ở cổng, ở đình miếu, cái gì có mái che là có cây nêu và nêu phải cao hơn mái. Mỗi bản có một khu ruộng thờ chỉ thổ tù và thổ lang mới được trồng nêu ở đây. Nêu được hạ vào mồng 7 tháng Giêng.

Ngày 27 tháng Chạp, người Mường lấy 4 cum lúa vắt lên 4 góc dựa bếp để mồng 7 tháng giêng lấy xuống giã, ném cho gà. Ngày 30 tháng Chạp cúng thổ thần và long mạch. Đúng giao thừa đâm đuống, cả làng nhà nào cũng đâm cối đuống. Cối đuống là cối giã hình thuyền, giã bằng chày tay đâm từ trên xuống, thóc cho cả cum vào cối, giã rồi trở ra và rũ, khi thành gạo đổ sang giã cối tròn nhưng đâm đuống giao thừa là đâm cối không. Trong lúc phụ nữ đâm đưống thì nam đốt pháo, gõ chiêng trống. Tiếng trống chiêng hoà với tiếng đâm đuống gây không khí rộn rã tưng bừng cho bản làng. Có lệ rằng nhà thổ lang ở bản và nhà thổ tù ở xã chỉ nổi chiêng trống mà không đâm đuống. Tới giao thừa, người mẹ kín đáo không được nói mà lay các con gái con dâu dậy, phải nhớ là không được lậl chăn các cô. Cối đuống được quét sạch từ trước, người mẹ gác chày vào cối. Làng nổi ba hồi trống, 3 hồi chiêng, khi dứt tiếng chiêng trống, người mẹ gõ ba tiếng đuống rồi cứ thế mẹ con đâm đuống. Cả bản cùng đâm, nhà nhà cùng đâm. Nhà nào nghe trống làng nổi mà còn chưa đâm đuống được là thua chị kém em, làm ăn không thuận lợi trong năm mới. Con dâu chưa có con và con gái chưa chồng không được gõ vào thành cối, do đó thường chỉ có người con dâu trưởng là có vinh dự đó. Đâm đuống có nhịp, cứ ba tiếng vào lòng cối thì lại có một tiếng gõ vào thành cối, thành ra tiếng “Tinh, tinh, tinh – cộc”, nhịp điệu mau dần cho đến khi nhịp hai tiếng đâm xuống lòng và một tiếng gõ thành “Tinh, linh – cộc”. Như vậy đâm đuống ngày tết là hình thức lễ nghi do phụ nữ đảm nhiệm.

Ngày mồng một Tết, gà gáy sáng, người con gái lớn trong nhà lặng lẽ đi kín nước ở khe suối về cho cả nhà rửa mặt và lấy nước cúng. Người 50 tuổi trở lên làm ván gà ra đình gọi là ván lão. Với các cụ từ 60 trở lên, ván gà cúng xong được đem về còn các ván khác cùng ăn chung tại chỗ và cũng có phần mang về.

Mồng một tết có tục xông nhà gọi là xông lon, gia chủ có thể tự xông lấy: đi đâu về cầm một cành lộc, cành hoa về giả làm khách đến thăm. Nói chung xông lon phải đón người vía lành, người này đến nhà thật sớm và nét độc đáo khác với tục người Kinh là có thể đón phụ nữ xông nhà nhưng là phụ nữ có tuổi, đông con, gia đình hoà thuận sung túc. Người xông nhà chào chủ nhà trước. Chủ nhà nói:” Chào ông lái (hay bà lái), năm mới ông lái đến sớm thế, hỏi thăm ông lái (bà lái) gia đình có được mạnh khoẻ, buôn bán có phát tài không?”. Người xông nhà chúc mừng, tự nói mình đi “buôn xuân bán lộc , chúc cho gia chủ của đồng làm ra, của nhà làm nên”… sau đó ăn uống rồi ra về.

Cũng trong ngày mồng Một có lệ cúng ông Dằng bà Dõi ở chuồng trâu. Mâm cơm cúng có một đĩa lòng, một dĩa thịt, một đĩa bánh, ba con tép hay cá (nhất thiết phải có), một bát mật, một cối vàng chẩu, ba chén rượu. Cúng xong cho trâu ăn bánh tẻ, bánh chưng. Cũng trong tục lệ này sáng sớm người già nhất nhà gọi các con vật nuôi trong nhà, trâu thì “nghé ọ, nghé ọ”, gà thì “cục tác” , chó “gâu gâu”, lợn “ủn ỉn” như thế để chúc cho chăn nuôi thịnh vượng.

Sáng mồng Một này cả nhà uống nước sáng dạ (rác gạch lạ) là nước giếng nước khe nhưng đã làm phép. Sang ngày mồng 2, sáng sớm chủ nhà ra ruộng cày một luống cho rõ đến bờ đến góc, làm lễ cúng. Có nhà chỉ mắc ách cho trâu mà không ra ruộng. Đó là lễ khai canh.

Ngày 6 và 7 tháng Giêng, cầu đại tiệc toàn xã, dân tế thần cầu mạnh khoẻ, bình an, no đủ, “tốt mặt hơn người, tươi mặt hơn bạn”. Thổ lang cúng ở xóm, thổ tù cúng ở xã.

Từ ngày mùng 1 Tết cấm động thổ. Mồng 7 mới mở cửa rừng và động thổ. Có nhiều nơi lễ mở cửa rừng là lễ cúng “Sơn quân thần hổ”, bày thịt chó nhưng phần nhiều vẫn là thịt lợn sống. Cũng có nơi còn có tục làm “Tết cầu cá” hay “Hội kéo bạ”. Bạ là dụng cụ đánh cá hình cái nơm nhưng to bằng bằng gian nhà đặt ở quãng nước sâu, xếp cây từ đầu tháng chạp, bùn đất bám vào cá đến ở. Mồng 4 tết cả làng ra kéo bạ đánh cá, tiếng cười nói hò reo vang một khoảng rừng rất vui. Cá ấy để ăn gỏi uống rượu. Người Mường còn có tục ăn tết với thịt trâu nướng thái to bằng bàn tay, nướng tái ăn với lá me chấm dấm chua sào mẻ đặc. Có nhà ngày tết còn làm thịt gà ướp muối tẩm hạt dổi giã nhỏ đem nướng mà không dùng thịt gà luộc hay rang. Các thứ bánh tết của đồng bào là bánh chưng tày, bánh dấm, bánh tẻ, bánh gai, bánh mật, bánh nắng. Bánh chưng tày phải gói khéo cho gân lá rạch một vệt thẳng chia đôi chiếc bánh.

Phong tục tập quán của người Mường ở Thanh Sơn, Phú Thọ

Trong các ngày tết, trai gái vui xuân, hát giao duyên, ném còn, kéo co,hát xường rang, chơi đu đánh vật, múa mới, hát sắc bùa, đánh cồng chiêng.

Các tết khác trong năm của người Mường

Cũng như người Kinh, người Mường có một số tết khác trong năm như tế Hàn thực mồng 3 tháng Ba, tết Đoan ngọ mồng 5 tháng Năm (làm to hơn cả), tết xá tội vong nhân rằm tháng Bảy, tết cơm mới mồng 10 tháng Mười. Người Mường không có tết Trung thu.
Tết mồng 3 tháng Ba cũng ăn bánh trôi như người Kinh nhưng không ăn bánh chay mà làm bánh giầy, mổ gà, vịt, đồ xôi. Đặc biệt phải có 1 trong 4 thứ: Ếch, ngoé, lươn, trạch.
Tết mồng 5 tháng Năm , đồng bào lấy lá gùn pha vào gạo gói như bánh tò te. Làm xôi đỏ hoặc cơm ngũ sắc (vàng, đỏ, trắng, tím, xanh). Nhà nào cũng mổ gà cúng gia tiên. Cây trong vườn cây nào chưa ra quả thì đánh vào gốc hỏi tội bắt ra quả. Ngày này cũng là ngày các thầy lang đi hái thuốc. ở ngoài ruộng, người ta lấy củ dáy đặt ra các tràn ruộng để trừ sâu. Buổi tối trai gái kéo nhau ra ruộng thổi kèn nứa với giọng bi ai và hát ví thật sầu não để cho saàu bọ nghe vỡ bụng mà chết.
Tết cơm mới tổ chức theo tín ngưỡng và hình thức lễ nghi dân tộc: các gia đình mổ lợn, gói bánh chưng, lại có tục lấy vía lúa để gác bếp. Theo tục lệ, vợ chồng gia chủ 4 bông, các con mỗi người một bông kể cả người đi vắng, buộc lại thành một túm. Thổ lang cúng ở xóm rồi tới các gia đình. Lúa nếp gặt về, trai gái đến nhà thổ lang làm cốm, hát đối đáp. Sáng mồng 10 làm lễ ở đình, phần xôi đem về treo lên đáng thờ, hôm sau các nhà làm nếp mới cúng gia tiên. Lễ này được làm to hơn lễ thượng điền.

Tín ngưỡng vòng đời người Mường

Tín ngưỡng vòng đời người là tín ngưỡng và nghi lễ liên quan đến cuộc đời một con người từ lúc sinh tới lúc chết như sự sinh nở, cưới xin (thành thân), thờ thần bản mệnh, lễ tang ma và thờ cúng người chết…. Người Mường Thanh Sơn có nhiều tục lệ kiêng kỵ, nhất là về sinh đẻ. Sau khi sinh có tục cắm cữ ở cửa, có thể là một nọn rơm hoặc một cành ớt, người lạ không được vào. Người Mường cũng có tục cúng mụ như người Kinh, gia đình mời thầy mo đến cũng cho trẻ. Lễ xong thầy cúng buộc chỉ trắng vào cổ tay đứa bé, mỗi vía 1 vòng, trai 7 vòng, gái 9 vòng. Khi đứa bé đầy 1 tuổi lại có lễ cúng đặt tên. Đồ cúng ngoài lễ vật có gương, lược, dao, một bát nước trắng và một bát nước chè. Đặc biệt, người Mường Thanh Sơn có tục làm lễ thay ma cữ (7 ngày hoặc 9 ngày), người nhà lập bàn thờ làm lễ cúng thần linh. Lễ vật có hoa quả, bánh trôi, bánh ít, quần áo giấy và nhất thiết là phải có 7 quả trứng (nếu con trai), 9 quả trứng (nếu con gái). Sau khi cúng, người mẹ bế đứa bé ra trao cho một người khoẻ mạnh, có đủ con trai con gái. Người bố tháo bếp cữ ra rửa sạch cất vào một nơi. Từ sau lễ này, đứa bé có tên gọi chính thức và được công nhận làm người. Lễ thay ma cữ là nghi lễ rất quan trọng trong vòng đời của người Mường. Vì vậy được rất đông thành viên trong cộng đồng tham dự, đặc biệt là những em bé 12 – 13 tuổi.

Tục cưới hỏi của người Mường

Lễ ướm hỏi (khảo thiêng): Trước đây, trai gái Mường ở Thanh Sơn được tự do tìm hiểu bạn đời, trừ tầng lớp lang đạo bị ảnh hưỏng ít nhiều lễ giáo phong kiến nên phải theo quan niệm “Sừng đối sừng, lược đối lược” (tức là môn đăng hộ đối). Sau nhiều lần ti rôống mái (đi tìm hiểu), chọn được người ưng ý, chàng trai mới thông báo cho gia đình biết để nhờ người sang nhà người yêu thưa chuyện. Đây là nghi thức đầu tiên trong tổ chức cưới xin, đồng bào gọi là khảo thiêng, tức đánh tiếng thăm dò hay ướm hỏi.
Giống như người Kinh, người Mường ở Thanh Sơn trong cưới xin cũng cần một người đứng ra làm mối, gọi là ông mờ. Tuy nhiên, ông mờ khác ông mối bà mai của người Kinh ở chỗ: Ông này được nhà trai đặt niềm tin và phó thác trọng trách rất nặng nề, đám cưới thành công hay không phụ thuộc phần lớn vào tài nghệ của ông mờ trong khi đi hỏi, tổ chức gặp gỡ giữa nhà trai với nhà gái và lo liệu mọi việc để đám cưới diễn ra tốt đẹp. Thậm chí, ông phải có trách nhiệm đối với đôi vợ chồng trẻ cho đến khi ông về “thế giới Mường ma” mới chấm dứt vai trò của mình. Vì thế, người Mường rất chú trọng đối tượng sẽ nhờ làm ông mờ. Khi tìm được người, gia đình chàng trai sẽ mang lễ đến nhà để nhờ cậy. Lễ cho ông mờ không có quy định cụ thể mà tuỳ vào điều kiện của từng nhà. Nếu nhà nào khá giả, lễ có gà, lợn; còn nếu khó khăn thì chỉ có con gà, chai rượu cũng đủ.

Người làm ông mờ thường già cả, quảng giao, hoạt bát, am hiểu sự đời, có đủ con trai, con gái, con dâu, con rể, cháu nội, cháu ngoại, có phúc đức, ăn ở hoà thuận, được mọi người kính trọng và uống rượu tài. Việc đánh tiếng không thành công, nhà trai phải có lời tử tế an ủi để ông không phật ý rồi xin phép tìm người khác thay thế. Còn việc đánh tiếng thuận lợi và đi đến hôn nhân, vợ chồng trẻ này phải coi ông mờ như cha và “sống tết, chết giỗ”. Con cái sinh ra cũng phải kính trọng, biết ơn người đã tác thành cho pọ (bố) và cạy (mẹ) mình. Ngày tết lễ, hội hè, con cháu phải biếu ông quà. Khi ông mất, vợ chồng phải có một đầu lợn cúng ông và để tang như con đẻ. Vợ chồng nào không quan tâm kính trọng ông mờ sẽ bị dư luận xã hội chê cười và sau này, con cháu sẽ khó nhờ được người làm mối. Ông mờ cũng coi đôi vợ chồng đó như con, phải có trách nhiệm giúp đỡ, hòa giải mâu thuẫn cho họ trong cuộc sống. Điều này góp phần làm cho hôn nhân của người Mường ở Thanh Sơn diễn ra tốt đẹp, bền vững, quan hệ gia đình – xã hội gắn bó chặt chẽ.

Để tiến hành khảo thiếng, ông mờ đưa đến nhà gái một nòm nhỏ (lễ nhỏ), gồm trầu, cau, thuốc lào. Ông thưa chuyện vối nhà gái cho nhà trai đi lại kết thân. Nếu nhà gái tỏ ý bằng lòng, ông mờ về nhà trai bàn bạc tiếp bưốc thứ hai. Sau ba ngày không có những điềm gở như gà gáy trưa, quạ kêu trong vườn… nhà gái mới đặt lễ vật lên khám thờ làm lễ thông báo cho tổ tiên, ma nhà rằng gia đình sắp có tin vui.

Lễ dạm ngõ (tỉ chầu năm): Đây là bước tiếp sau nghi thức thăm dò, ướm hỏi, giống như dạm ngõ của người Kinh. Lần này, nhà trai cử mẹ, cậu hoặc chú ruột của chàng trai cùng ông mờ đưa đến nhà gái một nòm gồm hơn chục cái bánh nếp, trầu, cau, xôi, gà, rượu. Cũng có khi, lễ còn thêm 2 gói thuốc lào và một vài thức khác. Thay mặt nhà trai, ông mờ tiến hành bàn bạc với đại diện bên nhà gái mọi vấn đề liên quan đến đám cưới như đồ thách cưới, nghi thức cũng như ngày, giờ đón đưa dâu… Đây cũng là dịp để mẹ chàng trai cùng chú bác (đại diện cho họ nội) hoặc cậu (đại diện cho họ ngoại) quan sát, tìm hiểu thêm gia đình và cô dâu tương lai.

Sau nghi lễ này, nhà trai phải lo thêm hai nòm mang sang nhà gái để họ đi báo cho anh em họ hàng: Roõng thiếng: gồm 2 đôi gà từ 1,5 – 2 kg, 4 gói cơm nếp, 20 bát gạo, 20 cái bánh nếp, 10 cơi trầu… Phát khá: gồm 1 con lợn 25 – 50 kg, 1 coong rượu nếp, 20 bát gạo, 20 cái bánh nếp, 100 lá trầu và 1 buồng cau. Nhận hai nòm này, nhà gái chính thức thông báo với bà con họ hàng lần thứ nhất về chuyện con gái mình và về gia cảnh nhà trai. Cũng từ đây, nhà gái chuẩn bị mọi việc cho ngày cưới; còn cô gái cũng gấp rút hoàn thành mọi thứ như chăn, đệm, đai khăn… để làm quà tặng cho nhà trai.

Lễ ăn hỏi (ti chầu cả): Hoàn thành bước dạm ngõ, nhà trai tiến hành một bước nữa là ti chầu cả. Thời gian giữa ti chầu năm đến tỉ chầu cả kéo dài vài ba tuần hoặc hơn một tháng. Ông mờ đưa lễ hỏi sang nhà gái, tuỳ từng vùng, điều kiện kinh tế từng gia đình mà lễ hỏi được sửa soạn to nhỏ khác nhau. Qua khảo sát cho thấy ở Thạch Khoán, Tất Thắng, Võ Miếu… lễ hỏi thường to các xã trong vùng, như: Lợn có thể 2 con và rượu, gạo, gà, trầu, cau đều có phần nhiều hơn.

Nhận lễ đưa sang, nhà gái mổ lợn làm cơm mời nhà trai ăn uống. Cũng trong buổi này, nhà gái sẽ thông báo chính thức đồ thách cưới, cụ thể từng thứ một cho nhà trai chuẩn bị. Người Mường ở Thanh Sơn không có lệ thách cưới bằng quần áo, đồ trang sức hay tiền bạc (trước kia, trừ thổ lang nhưng cũng rất hãn hữu) như ở người Kinh và nhiều dân tộc anh em khác. Đồ thách cưới chủ yếu là lương thực, thực phấm như: Thịt lợn, gạo (nếp, tẻ), bánh trái, rượu, thuốc, chè khô nhằm phục vụ cho nhà gái tiếp đãi bà con họ hàng trong ngày cưới và đôi khi cũng rất nặng nề.

Trong Chúc thư của thổ lang Đinh Thế Thọ (được lập vào thế kỷ XV) ở Võ Miếu có quy định: “Lệ thổ lang cưới vợ cho con trai, dân phải góp một con trâu và 10 vò rượu, 10 đấu gạo nếp… Thổ lang gả chồng cho con gái, dân phải góp một con trâu và 4 thúng cơm…”.

Việc thách cưới được người Mường ở Thanh Sơn coi như lễ của nhà trai để đền đáp, tỏ lòng cám ơn gia đình nhà gái đã nuôi cô dâu khôn lớn, giỏi giang; đồng thời giúp nhà gái một phần đế chuẩn bị cỗ bàn cho ngày cưới. Song nhiều khi lạm dụng, nhà gái còn thách cưới lớn, đòi hỏi quá điều kiện thực tế. Mặc dù vậy, nhà trai vẫn cố gắng tìm mọi cách xoay xở, vay mượn để cho hôn lễ của con trai mình thành công. Đối với người Mường, việc cưới không chỉ là của gia đình mà còn là việc của cả dòng họ, làng xóm nên được mọi người trong họ lo giúp, đặc biệt trong hoàn cảnh khó khăn. Họ giúp nhau vô tư, người giúp không nghĩ đến đòi nợ, còn người nhờ không lo trả là lối sống được hình thành từ xưa còn lưu giữ lại cho đến ngày nay. Vì vậy trong tỏ tình, các chàng trai Mường ở Thanh Sơn còn có câu: “Anh nghèo nhưng họ anh đông. Mỗi người một đồng sẽ cưới được em”.

Để chuẩn bị đồ thách cưới, nhà gái thường gia hạn 2 – 3 năm. Trong thời gian này, chàng rể tương lai phải đến làm lụng cày bừa, cấy hái cho nhà gái. Việc này giúp cho nhà gái tiếp cận, xem xét kỹ nết ăn ở, nết làm của chàng rể. Vì thế, đồng bào có câu: “Gái chọn chồng nhòm bờ ruộng. Trai chọn vợ nhìn cạp váy”. Chàng trai phải tỏ ra là người tháo vát, giỏi đồng áng, biết ứng xử, nếu không sẽ khó được cảm tình của bố mẹ, anh, chị, em cô dâu. Ngày lễ tết, nhà trai phải mang một con lợn 20 kg, 10 kg gạo nếp cho nhà gái. Thời gian thử thách này rất khó khăn cho chàng rể tương lai. Và điều cấm kỵ là trong quá trình tìm hiểu, đôi trai gái không được quan hệ với nhau. Người Mường coi trọng sự trong trắng của cả nam và nữ. Điều này đảm bảo tính bền vững cho hôn nhân của họ. Nếu ai vi phạm, sẽ bị cộng đồng khinh bỉ.

Lễ đón dâu (mừng cưới): Đến ngày lành tháng tốt, theo thoả thuận từ trước, nhà trai tổ chức đón dâu, hay còn gọi là mừng cưới. Lễ cưới được tổ chức linh đình ở cả nhà gái lẫn nhà trai. Từ chiều trưóc ngày đón dâu, chú rể phải đến nhà gái phụ giúp việc sửa soạn cỗ bàn, để tạo thêm mối quan hệ thân mật với mọi người. Từ sáng sớm, nhà trai bắt đầu tổ chức đi đón dâu. Họ mang,theo lễ vật thách cưới cho nhà gái và số người đi bao giờ cũng là số lẻ. Người Mường quan niệm đi lẻ về chẵn, tức khi về có đôi. Bên nhà gái sẽ cử các cô gái, thường là bạn thân của cô dâu, đứng đợi sẵn dọc đường đoàn đón dâu đi qua để chỉ đường, nhằm biểu lộ sự quan tâm của nhà gái.

Đến nhà gái, đoàn đón dâu dừng lại trước cổng để ông mờ làm thủ tục thông báo cho người trong nhà. Ông đem một chai rượu nhỏ cùng cơi trầu vào làm lễ xin nhà gái cho người ra mở cổng. Người nhà gái nhận lễ nhưng chưa mở cổng ngay. Họ sẽ cho những trai gái “giỏi giang” ra hát đối đáp với nhà trai một khoảng thời gian, đủ để trong nhà sửa soạn tươm tất mọi nghi lễ tiếp đón như nước, trầu, cau… Nhà trai phải vượt qua cửa ải đối đáp này mới vào được nhà. Tuy vậy, đây chỉ là nghi thức nhà gái chào đáp lễ chứ không có hàm ý làm khó cho nhà trai. Sau vài lượt đối đáp lại, người ta mở cổng cho đoàn đón dâu vào. Suốt dọc lối đi, nhà gái để sẵn những chậu, vại nước để té vào đoàn, đặc biệt là chú rể và ông mờ. Biết trước nghi lễ này, ông mờ sẽ chuẩn bị sẵn ô hoặc nón cho chú rể.

Lên nhà, chú rể nhanh chóng tách ra cùng vài thanh niên vào bếp làm cơm cho nhà gái cúng tổ tiên. Trong thời gian làm cơm, họ sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhà gái cho ngưòi đến cản công việc của họ như giấu lợn, cho lợn ăn cám để khó làm lòng…. Muốn chuộc lợn, chàng rể phải có một lễ nhỏ hay ít tiền. Trong lúc nấu nướng, họ còn bị giấu đồ, làm tắt bếp nhưng các chàng trai phải luôn tỏ ra vui vẻ, hoà nhã. Việc làm này của bên nhà gái nhằm kéo dài thời gian của nhà trai, nếu các chàng trai làm phật lòng họ, nhà gái sẽ không ăn cỗ, và như thế, nhà trai sẽ không được rước dâu.

Cỗ bàn chuẩn bị xong, nhà gái cúng tổ tiên rồi mời nhà trai ăn uống. Các chàng trai, cô gái bên họ gái có nhiệm vụ mời thật nhiều rượu cho rể và các bạn trai của chàng uống say. Đây là cử chỉ thể hiện tấm lòng nhà gái đáp lại việc chàng rể và các chàng trai đã chịu khó, kiên nhẫn vượt được qua những thử thách trong nấu nướng. Tuy vậy, các chàng trai và cả ông mờ phải tỉnh táo, không được say, nếu không họ sẽ bị bôi nhọ. Dịp này, ông mờ và mọi ngưòi sẽ phải tỏ rõ tài uống rượu của mình. Trong ăn uống vui vẻ, một số người còn hun khói để vừa ăn vừa ho, nước mắt chảy giàn giụa. Cuối buổi mừng cưới, sau khi ông mờ có lời với bên nhà gái, chàng rể chào bố mẹ vợ để xin đón dâu về cũng bị các cô gái đeo mõ trâu vào cổ. Dâu về nhà chồng, người ta chuẩn bị cho cô một con dao rựa, 10 cái chăn bông và một cái ép (giỏ) đựng cơm nắm (khi về đến nhà chồng, cô dâu sẽ mở cơm nắm ra ăn). Đoàn rước dâu về gần nhà, các cô gái bên họ nhà trai đem đuống ra chàm (đâm, gõ) báo hiệu cô dâu đã về cho đến khi dâu, rể làm xong lễ cúng gia tiên, trình ma nhà, vua bếp mới thôi. Chàm đuống là nghi thức đón mừng dâu mới, theo từng nhịp “Cumỉ cumỉ cắc! cum! cum!” nghe rất vui tai. Bước lên cầu thang, cô dâu được mọi người đón sẵn để té nưốc rửa chân, cất nón. Lên sàn, nhà trai trai chiếu đẹp mời cô dâu ngồi cho họ hàng bên rể hát mừng cô dâu mới:

Tối hôm ấy, nhà trai tổ chức vui chơi, hát đối đáp để mọi người mừng đôi vợ chồng trẻ mà chưa làm lễ động phòng. Đêm đến, cô dâu ngủ cùng các bạn gái còn chú rể nằm chung với các bạn trai. Ngày hôm sau, cô dâu lại về nhà cha mẹ đẻ để lấy của hồi môn. Nếu của nhiều, nhà trai sẽ cử người mang giúp về. Người mang giúp có thể là chị dâu, em dâu hoặc chị em gái. Ở nhà chồng ba ngày ba đêm, cô dâu lại về ở nhà mẹ đẻ vài ba hôm và sau đó trở về nhà chồng một tối. Từ đó, cô dâu được đi lại tự do giữa gia đình mình và gia đình chồng đến lúc sinh được con đầu lòng mới ở hẳn bên nhà chồng.

Bên cạnh cưới dâu về, người Mường ở Thanh Sơn còn có tục ở rể giống người Kinh theo sự thỏa thuận giữa hai bên. Nếu gia đình nhà gái hiếm hoi, người con rể có quyền như con trai, mọi chi phí trong lễ cưới do nhà gái chịu. Đổi lại, chàng rể phải đổi họ theo họ bố vợ, con cái sinh ra lấy họ mẹ. Tục ở rể thường chỉ thực hiện với những chàng trai nghèo.

Cưới xin của người Mường ở Thanh Sơn với nhiều nghi lễ là một phần quan trọng liên quan đến chu kỳ đời người. Để đi đến cưới xin, thanh niên Mường có một thời gian dài tìm hiểu chọn lựa bạn đời. Sự áp đặt theo kiểu cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy không mấy phổ biến ở đồng bào. Do đó, hôn nhân ở người Mường Thanh Sơn là kết qua của tình yêu trai gái, giúp cho đời sống vợ chồng bền vững. Nhìn vào tục cưới xin truyền thống của đồng bào dân tộc Mường ở Thanh Sơn cho thấy, tuy có nhiều nghi lễ tốn kém và mất nhiều thời gian nhưng lại hàm chứa các yếu tố tôt đẹp như vai trò của ông mờ trong việc đảm bảo hạnh phúc lứa đôi, hoà giải mâu thuẫn vợ chồng hay nghĩa vụ của cặp vợ chồng đối với ông; sự giúp đỡ của cộng đồng trong cưới xin…

Đám cưới truyền thống của người Mường xưa có rất nhiều những bài hát dân ca mang đậm bản sắc văn hoá tộc người. Trước đây, nhà gái và cả hội hôn thường được nghe bố mẹ chàng trai, chú bác, cô dì của nhà gái cùng hát bài hát mừng nàng dâu mới như lời chào mừng, lời dặn dò, mong đợi của bố mẹ, họ hàng nhà trai với cô dâu mới rất thiết thực. Đáp lại lời chào mừng của gia đình mới, cô dâu cũng nâng chén rượu chúc mừng bố mẹ chồng bằng những lời ca có vần có điệu tận đáy lòng mình như lời hứa sẽ trở thành nàng dâu ngoan, hiếu thảo, chăm lo việc nhà chồng.

Hiện nay, tục lệ cưới xin truyền thống của người Mường ở Thanh Sơn đã thay đổi nhiều. Những tục lệ mê tín được loại bỏ, các bước tiến hành cưới xin đã đơn gian, giảm dần lễ vật thách cưới, ăn uống. Bên cạnh đó, một số tục lệ dần mai một như tục làm mối và vai trò ông mờ, tục hát đối đáp, tục ăn trầu…; những lời ca mượt mà ẩn chứa nhiều giá trị văn hoá tộc người đó đang mất dần. Tiếc rằng, nhiều đám cưới trong vùng người Mường đã không còn duy trì tục lệ hát những bài hát dân ca mang đậm sắc thái tộc người này nữa. Thay cho các làm điệu dân ca dân tộc, nhiều đám cưới của thanh niên Muờng hiện nay chỉ có nhạc rốc, nhạc ráp giống như đám cưới của người Kinh. Trang phục truyền thống của dân tộc Mường cũng đang dần bị thay thế bằng trang phục giống như của người Kinh. Cô dâu người Mường thích được mặc váy trắng nhiều tầng dài quét đất thay cho bộ áo váy truyền thống. Chú rể thì thích đóng bộ com lê, đeo cà vạt, đi giầy da. Trong đám cưới, các chàng trai, cô gái Mường cùng nhau nhảy những điệu nhảy mới quay cuồng trong những bản nhạc mạnh. Việc thách cưới bằng bạc trắng, tục dắt trâu sang nhà gái làm lễ vật xin cưới hỏi và các tập tục cổ như: Ném trấu vào đoàn nhà trai khi đến nhà gái đón dâu, căng dây, đóng cổng đòi tiền nay đã không còn nữa…

Tục tang lễ của người Mường

Thủ tục đám tang người Mường gồm các bước: Báo tang, chôn cất, để tang, sau chôn cất.

Báo tang: Khi gia đình có người qua đời, cùng với việc khâm liệm là việc báo tang cho họ hàng làng bản biết. Thủ tục báo tang có lệ người con dâu trưởng đem chày giã vào đuống một hồi khi cha mẹ chết. Người con dâu bỏ vào đuống 7 bó lúa nếu bố chồng chết hoặc 9 bó nếu mẹ chồng chết. Rồi cùng các con gái, con dâu, mỗi người một chày đâm lấy gạo đúc vào cối của người chết. Mọi người đến nhà có tang, nhìn mặt người chết lần cuối. Chiêng trống gõ liên hồi.

Chôn cất: Người chết được tắm nước lá bưởi rồi đặt nằm ở gian giữa, được đắp chăn và mắc màn cẩn thận. Tang chủ gõ dọng dao dựa vào ngạch nhà một hồi dài rồi gọi hồn thật to: “Ông (hay bà), họ tên… ở đâu thì về nhập xác”. Có nơi tang chủ (là con trai trưởng) đập dọng dao dựa vào khung cửa 3 tiếng rồi kêu to: “Ối trời đất ơi, bố (mẹ) tôi chết rồi” và lúc này con cháu mới được khóc. Việc con cháu khóc cũng phải theo tục lệ, gọi là lễ “phát khốc”. Sau khi tang chủ đã làm thủ tục dập dao vào cửa, chiêng trống đánh nhịp chậm mới phát khốc. Quan tài là một thân cây, sau khi ngả cây, chặt bỏ cành lá ngọn gốc, lấy thân đế dài 1m80 đến 2m xẻ làm đôi, khoét ruột rồi đưa về nhà đám, đặt theo chiều dọc nhà. Có nơi như Tân lập (Thanh Sơn), người ta trùm lên quan tài tấm ván nếu người chết ở tuổi cao và trùm vải trắng nếu người chết còn trẻ. Người ta quan niệm rằng những người thọ cao là sự phát đạt, biểu hiện dương tính, màu đỏ là thuộc dương nên trùm màu đỏ lên áo quan và chắt cũng để tang cụ khăn màu đỏ. Màu trắng thuộc âm, áo quan màu tráng chỉ sự mất mát thuộc âm tính giành cho người chết trẻ. Phủ vải xong, người ta buộc 2 đầu lại thành cái túi bọc áo quan, đặt lên mễ. Trên quan tài đặt một cái mâm có cái bát và chỉ một chiếc đũa, 1 chén rượu, 1 bát nước lã, 1 đĩa trầu cau. Bên dưới mâm theo chiều vai của người quá cố để một chiếc đũa. Trên quan tài để một chiếc đũa cho người đã khuất vì người khuất ăn ít và dưới mâm để một chiếc đũa giành cho quỷ thần ăn chậm. Nếu để cả đôi nó sẽ ăn nhanh, mất phần của người chết.

Nhập quan rồi nhưng chưa phải là đã chôn ngay. Người Mường có tục thờ ma ở trong nhà, có nghĩa là để áo quan ở nhà từ 7 ngày tới 3 tháng rồi mới đưa ra mộ. Cũng tùy theo địa phương và cả theo tình hình kinh tế của gia đình mà số ngày để áo quan trong nhà có khác nhau, có nơi 7 ngày có nơi vài tháng, nay hủ tục này không còn. Trước kia, có nơi còn có tục lệ phân biệt đối xử: Ông ngài, nhà lang chết quan tài dặt dọc theo đòn nóc, còn người dân thường chết, quan tài lại đặt theo chiều ngang nhà theo xà ngang của nóc. Khi đưa quan tài ra cửa, quan tài ông ngài, nhà lang đưa theo cửa chính, gian đầu, có thang xuống, còn dân thì tung vách sau lùa quan tài ra.

Thờ ma trong nhà, chưa đem chôn, ngoài ý nghĩa tục lệ còn có ý nghĩa kinh tế vì nhiều trường hợp, gia chủ không có đủ tiền làm ma “trả nợ miệng’, không dám đem chôn vì sẽ có người buộc mớ lá vào cái cọc cắm ở mộ. Quan tài để trong nhà, hàng ngày phải cúng lễ, mỗi ngày 2 bát cơm, 1 đĩa thịt, 1 đĩa rau và đốt hương khấn mời tận miệng.
Vì tập quán ăn uống nặng nề nên có tục “làm ma khô”,người đã khuất đặt trong quan tài dể ở nơi thoáng gió, khi nào có điều kiện mới tiến hành đưa đám và đem chôn, lúc này xác đã khô. Quan tài đóng gỗ tốt, ghép cẩn thận, đục một lỗ cắm ống bương cho chui qua nóc nhà để thông hơi người chết.

Đưa ma là công việc quan trọng, có nhiều hình thức lễ nghi phiền phức và nhiều lễ tiết, tục lệ dường như chịu ảnh hưởng của lễ tang người Kinh. Việc phát tang chỉ tiến hành khi định được ngày, giờ chôn cất. Sau phát tang dân làng mới phúng viếng và ăn uống cho tới khi chôn cất xong. Việc đưa ma gồm có các bước: Đưa ma từ nhà tới nơi chôn. Dọc đường ma đi có một trạm nghỉ gọi là nhà “Đạo lộ”, quan tài dừng lại ở đây làm lễ rồi lại đi tiếp, đó là lễ thần đưa đường cho hồn ma. Đến nơi an táng, quan tài được chôn xuống huyệt. Việc để tang được bắt đầu từ sau lễ hạ huyệt.

Người Mường không có nghĩa trang mà chôn cất, thường có sự chỉ dẫn của thầy mo. Mộ nhà nọ không chôn gần mộ nhà kia. Khi chôn thực hiện theo lệ “Đầu gối tựa sơn, chân đạp thủy” và cũng không có lệ cải táng nên huyệt sâu. Ở trên mộ có tục để ở phía đầu một hòn đá, ở phía chân 2 hòn đá gọi là “làm nay”. Người ta chôn cạnh mộ một cái hũ làm vại nước cho người chết, 1 chiếc mâm, 4 cái bát, 4 đôi đũa, 2 nồi, 2 niêu, 1 dao bằng gỗ. Cũng có nơi rắc gạo và đỗ quanh mộ nếu đỗ nảy mầm là “Mồ yên mả đẹp”, nếu không nở mầm cho là chết không phải giờ.
Người Mường ở huyện Thanh Sơn còn có tục làm “tờ họ” khi hạ huyệt. Người ta đem theo một tờ giấy khổ rộng có vẽ hình tổ họ. Mỗi họ Mường đều thờ một con vật tổ như chào mào, cuốc, ca ca, thằn lằn, rắn ráo v.v..: và mỗi con vật ấy đều có truyền thuyết gắn với dòng họ. Hình vẽ “Vật tổ” ấy được gọi là “tờ họ”. Người ta cặp nứa ở đầu tờ họ và buộc cán, cắm vào bát cơm có quả trứng luộc bóc vỏ đặt tên chốc quan tài, bát cơm quả trứng được chôn theo quan tài, còn tờ họ đặt trên mộ.

Đưa đám và hình thức tang trở: Đồng bào Mường cũng có tục con trai con gái của người chết khi đưa áo quan đi khỏi nhà thì lăn đất như tục người Kinh và đi giật lùi trước quan tài, khi quan tài đặt lên đòn khiêng rước đi thì đi dưới gầm đòn khiêng. Trong đám tang con trai đội mũ rơm, con gái đội mũ xô bồ, cháu nội đội mũ vặn dây chuối. Đưa ma mẹ, con cháu đi lùi, đưa ma bố con cháu đi thẳng.

Việc để tang: Trai, gái, dâu, rể để trở 2 năm 3 tháng và trai gái không được dựng vợ gả chồng, cháu nội trở 1 năm, chắt 5 tháng, anh em để trở nhau 5 tháng.
Một số nghi lễ trong tang lễ: Trong 3 ngày đầu sau khi chôn cất, gia đình phái đem ra mả cơm, nước, củi đóm gọi là tục “bỏ mả”. Trong 3 ngày ấy làm ma to nhỏ tùy theo từng gia đình, đây là việc “làm hiếu’, nhà giàu có thể mổ trâu để làm hiếu. Sau 3 ngày không mang cơm nước ra mồ gọi là “đóng cửa mả”. Sau trăm ngày có lễ đốt nhà táng.

Thờ 3 tháng 10 ngày sau khi chôn, mỗi ngày 2 bữa cơm, 1 đĩa thịt, 1 đĩa rau, đốt hương khấn “mời miệng” mời thầy mo cúng tiễn ma đi, cho ma 1 mâm, 1 bát, 1 chén, 1 đôi đũa, 2 nồi con, đem ra mộ úp lên chốc mả. Thầy mo gieo đỗ con hay vừng quanh mộ, đỗ có 2 gói: 1 để sống, 1 luộc chín, gói luộc giành cho “thần trùng”, gói sống cho gia chủ khấn lễ thần trùng, đại ý “Qúy quan nhận đỗ”, nếu đỗ này mang về âm cung mà nở thì quan về đòi nợ nhà chủ, nếu không nở không được về đòi”. Ở một số xã ở huyện Thanh Sơn và Yên Lập, cũng trong tục này người ta còn đặt ở 2 đầu mả 2 vại hay 2 vò nước và đặt 4 góc mộ 4 hòn đá.

Người Mường có tục: Cúng tam nhật (3 ngày), cúng 10 ngày, cúng 100 ngày, làm giỗ đầu, làm giỗ hết.

Một số phong tục tập quán của người Mường

Ngoài các nghi lễ, tập tục về tín ngưỡng vòng đời, tín ngưỡng lúa nước, cưới hỏi, tang ma… người Mường Thanh Sơn còn có nhiều tập tục và kiêng kỵ khác: Người Mường có tục “giỗ họ” nghĩa là chỉ cúng tổ 3 đời, ít khi đến tổ 5 đời, nhưng họ nào duy trì được tục cúng tổ 4 đời thì họ hàng góp gạo thịt để làm giỗ chung. Con hay cháu được hưởng ngôi nhà của các cụ để lại thì lo việc giỗ.

Người Mường lấy gian nhà đầu cầu thang lên làm “gian gốc”. Gian này rất quan trọng, có bàn thờ tổ tiên. Đám cưới, gian này xếp 3 mâm “cỗ gốc”. Kể cả khách sang cũng không được ngồi ăn ở gian gốc. Cả tàu lá chuối cắt ra bày cỗ cũng phải để ý đến gốc ngọn. Gốc tàu lá phải quay lên cửa sổ, phía trên giành cho vai trên ngồi. Nếu vô ý để ngọn lá quay lên cửa sổ sẽ bị coi là hỗn láo, thậm chí không cho ăn cỗ nữa. Trong gian gốc người ta coi trọng cột chồ (cột cái gian đầu). Người ta kiêng đóng đinh, đứng dựa cột hoặc ngồi dựa cột chồ. Trên đầu cột chồ ở nhà con trưởng có bàn thờ dòng họ.

Mỗi dòng họ có một loài vật tổ của mình như chim, hổ, chó, khỉ… Cho đến nay các dòng họ người Mường vẫn giữ tục kiêng không giết và ăn thịt vật tổ của họ mình. Ngoài ra còn có rất nhiều tục kiêng kỵ như:
– Khi chưa làm lễ động thổ kiêng không được bắc nước vào ruộng.
– Kiêng khách và con rể ngồi quay lưng vào bàn thờ.
– Kiêng nằm ngang trước bàn thờ mà đầu phải luôn quay lên bàn thờ.
– Kiêng đánh mắng con cháu nếu không may vỡ bát đĩa.
– Nhà có tang cha mẹ không được ra đình đám, đám cưới (giống người Kinh).
– Khi chào người trên kiêng để mũ nón trên đầu.
– Kiêng để vết trôn nồi trên bếp tro, bắc nồi ra phải gạt phẳng gio bếp.
– Kiêng để quai nồi chĩa vào giữa bếp và chĩa thẳng vào mâm ăn.
– Kiêng nằm ghếch chân lên cột chồ.
– Sào nhà không được hướng Bắc- Tây mà phải để gốc đằng Đông Nam, ngọn phía Tây Bắc…vv và rất nhiều kiêng kỵ khác

Xã Tất Thắng trong lễ tế Tản Viên có tục hèm cơm đỏ cơm đen bằng lúa nếp nương cũng là để ghi nhớ Tản Viên dã dạy dân trồng lúa.

Tín ngưỡng với nhu cầu tinh thần, thường là lĩnh vực chậm biến đổi bởi nó ăn sâu, bắt rễ trong tâm lý, trở thành thói quen trong sinh hoạt cùa con người. Tuy nhiên, cùng với những đổi thay dang diễn ra hàng ngày, tín ngưỡng Mường cũng có những biến đổi tất yếu: Ngôi nhà sàn vốn có những không gian thiêng (voóng tôông cùng với bàn thờ tô tiên, lò bếp với ba hòn nục, cột cái gần bếp…) khi chuyển sang ở nhà bê tông mái ngói hoặc mái bằng, mạc nhiên những không gian thiêng này không còn như xưa, thậm chí không còn hoặc buộc phải thay đổi. Chẳng hạn, trong đám tang cha, đâu còn voóng tông (cửa sổ gian ngoài, nơi đặt bàn thờ tổ tiên) để người con trai cả thực hiện tập tục chặt ba nhát vào thành cửa như dấu hiệu bắt đầu tang lễ và nhận trách nhiệm thay cha lo việc thờ cúng tổ tiên; quan tài người quá cố trước kia phải đưa ra qua voóng tôông với đầy đủ ý nghĩa lâm linh cùa nó, nay phải khiêng qua cửa chính; vị trí đặt bàn thờ cũng mặc nhiên thay đổi cho phù hợp với không gian của ngôi nhà xây. Cũng không còn cột cái cạnh bếp – nơi thường buộc những cây lúa nương (giữ vía lúa) hoặc đặt những quả bí bên cạnh cột (cầu mong no ấm, đông con nhiều cháu) trong lễ mừng nhà mới nữa.

Giống như người Kinh, người Mường cũng thờ vua bếp. Tuy nhiên việc thờ cúng vua bếp ở người Mường không phải vào ngày 23 tháng Chạp mà là vào ngày thờ cúng tổ tiên trong dịp Tết Nguyên Đán. Việc thờ Thổ Công khá phổ biến trong các gia đình người Mường. Vào bất cứ ngôi nhà nào của người Mường, chúng ta đều thấy ở sân trước hoặc ở đầu nhà có một bàn thờ nhỏ làm bằng tre, mái tranh. Đấy là nơi thờ Thổ Công, vị thần cai quản đất đai của gia đình. Khác với người Kinh, Thổ Công được thờ bằng một bát hương riêng và có khi được đặt cùng với bàn thờ gia tiên. Nơi thờ Thổ Công của người Mường bao giờ cũng chỉ được làm một mái, lý do dược người dân Mường kể lại như sau: Hai anh em nhà thần Thổ Công là người Mường Trời được vua trời phái xuống để trông nom các phần đất cho từng gia đình sinh sống. Hai anh em bàn nhau chọn ngày tốt để dựng một ngôi nhà cho mình. Trong lúc chờ chọn ngày tốt làm nhà thì hai anh em phải dựng một túp lều ở tạm, túp lều đó chỉ có một mái. Sau đó họ chọn mãi vẫn không được ngày tốt, chọn được ngày tốt đối với anh nhưng lại không tốt với em và ngược lại. Vì thế mà không thế chọn được ngày ưng ý, về sau họ quyết định ở luôn trong căn nhà một mái như vậy. Do đó, nơi dùng làm nhà thờ Thổ Công trong các gia đình người Mường bao giờ cũng chỉ có một mái. Vào dịp tết, giỗ… lễ cúng Thổ Công được các gia đình đặt lên miếu thờ ba vị Thổ Công các lễ vật để cầu mong sự an lành cho gia dinh.

Như vậy, cùng với tín ngưỡng cộng đồng, các hình thức thờ cúng trong gia đình chi phối toàn bộ hoạt động trong những ngày lễ tết cùa người Mường. Sự đa dạng về các hình thức thờ cúng trong gia dinh người Mường được thể hiện như là một đặc điểm nổi trội trong văn hóa tinh thần cùa họ. Các hoạt dông này không chỉ mang ý nghĩa giáo dục truyền thống gia đình đối với các thế hệ con cháu, mà còn thể hiện lòng biết ơn những người có công sinh thành, bảo vệ và mang đến cho họ cuộc sống.

Tuy nhiên, ngày nay các nghi thức và hình thúc thờ cúng trong gia dinh người Mường cũng có nhiều sự khác biệt so với cổ truyền. Có rất nhiều yếu tố tác động khác nhau, nhưng trước hết là sự tác động của xã hội hiện đại đã làm thay đổi về cơ bản cơ cấu kinh tế của mỗi gia dinh. Sự tác động trực tiếp vào cơ chế kinh tế tự cấp, tự túc vốn đã tồn tại từ ngàn xưa của người Mường và làm biến đổi khá nhiều các yếu tố của nền kinh tế truyền thống. Sự biến đổi đó tuy diễn ra chậm chạp nhưng đã có những hệ quả tương đối rõ ràng về các giá trị về văn hóa. Nó thể hiện trong sự thay đổi các yếu tố về quyền thừa kế tài sản cho con trat, các luật tục trong việc phân chia ruộng đất, phân công lao dộng… là những yếu tố bất biến trong xã hội Mường có truyền. Tất cả tác động đó đều liên quan trực tiếp tới điều kiện của các gia đình trong thực hành tín ngưỡng, quyết định sự phong phú, hay nghèo nàn trong các nghi thức thờ cúng.

Có thế nói, về cơ bản các hình thức tín ngưỡng thờ cúng trong gia đình người Mường vẫn được duy trì theo truyền thống xưa. Việc thờ cúng tổ tiên vẫn được các gia đình thực hiện trong các dịp lễ tết, các nghi thức thờ thần bản mệnh và Thổ Công cũng vậy. Tuy nhiên, nghi thức đã được vận dụng vào thực tế hoàn cành của từng gia đình. Trước đây, tục lệ về đồ cúng các thần linh bắt buộc phài có ba mâm: Một mâm dành cho bố mẹ đã khuất, mâm thứ hai dành cho các vị tổ tiên họ nội, màm thứ ba dành cho các vị tổ tiên họ ngoại. Thịt lợn, gà phải có đủ các bộ phận vì theo quan niệm, nếu thiếu là thể hiện sự không tôn trọng với ông bà, tổ tiên nội ngoại… thì nay đã được nhiều gia đình đơn giản hóa bằng cách cúng chung một mâm với các đồ cúng lễ tùy theo điều kiện cùa mỗi gia đình.

Điều nhận thấy rõ nhất sự biến đổi trong các nghi lễ thờ cúng là khi người phụ nữ sinh nở. Với niềm tin thiêng liêng về sự gắn bó giữa tổ tiên với số phận của mỗi thành viên gia đình, mỗi khi có đứa trẻ ra dời, người Mường không bao giờ quên làm lễ trình báo tổ tiên để cầu xin sự phù hộ, che chở. Trước đây người phụ nữ thường sinh đẻ ở nhà, bất kể dù mùa đông hay mùa hè đều phải ngồi bên bếp lửa, các cửa được đóng kín, điều kiện vệ sinh rất hạn chế, cộng thêm vào dó là các nghi thức cúng lễ thường rườm rà, tốn kém, ảnh hưởng đến sức khỏe và kinh tế của gia đình. Ngày nay các sản phụ được đưa đến trạm xá, được hướng dẫn các kiến thức nuôi dạy con và các thù tục rườm ra đã được thay thế bằng sự giản tiện, đôi lúc chỉ mang tính nghi thức mà thôi.

Không có một nền văn hóa nào đang tồn tại mà không dựa vào truyền thống vốn có từ xa xưa. Tuy nhiên thực tế cho thấy, đối với gia đình người Mường thì các phong tục tập quán cổ xưa đã được bà con kế thừa một cách có chọn lọc. Phần lớn các hủ tục trong nghi lễ gây ảnh hưởng tới kinh tế đều bị loại bỏ. Ngược lại những phong tục tốt được lưu giữ, thậm chí có những giá trị hoàn toàn mới được phát triển trên cơ sở truyền thống lâu đời của tộc người. Ngày nay, mặc dù sống trong xu thế của nền kinh tế mới, việc các gia đình người Mường vẫn còn lưu giữ được những giá trị truyền thống tốt đẹp góp phần không nhỏ vào việc duy trì kết cấu gia đình ổn định, một cộng đồng đoàn kết trên tinh thần yêu quê hương, xứ sở, bản Mường, gắn với thiên nhiên hùng vĩ, hòa đồng và hướng về cội nguồn dân tộc.

Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nói trên, sinh hoạt tín ngưỡng của người Mường cũng đã và đang gây ra những tác động tiêu cực không nhỏ cho đời sống xã hội. Với quan niệm có một thế giới thần linh cai quản vũ trụ và con người, người Mường sống phụ thuộc nhiều vào thế giới các thần linh mà xem nhẹ năng lực sáng tạo của bản thân mình. Bên cạnh đó, sinh hoạt tín ngưỡng rất dễ bị đan xen, trà trộn vào đó những niềm tin mù quáng và các hành vi tín ngưỡng phi văn hoá, phản giá trị.

Đối với người Mường, hệ thống tín ngưỡng có vai trò rất quan trong trong đời sống xã hội. Với tư cách là một yếu tố của bản sắc văn hóa tộc người, thông qua hệ thống tín ngưỡng, chúng ta có thể thây đươc thế giới quan, nhân sinh quan, phong tục tập quán, tâm hồn, tình cảm người Mường. Các loại hình tín ngưỡng hiện có tác động sâu sắc đến đời sống xâ hội của đồng bào Mường trên cả hai chiều hướng: Tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực, các loại hình tín ngưỡng của người Mường tồn tại lâu dài cùng với thời gian lịch sử, đã phần nào đáp ứng nhu cầu nhận thức, nhu cầu sinh hoạt văn hoá, tâm linh, tinh thần của đồng bào. Thông qua sinh hoạt tín ngưỡng, người Mường có thể tìm thấy lịch sử hình thành, phát triển của dân tộc mình, đồng thời lý giải được câu hỏi muôn thuở của bất kỳ cộng đồng dân tộc nào, đó là khi chết người Mường sẽ đi về đâu. Có thể nói, hệ thống tín ngưỡng của người Mường đã phần nào lột tả được thế giới quan, nhân sinh quan của người Mường. Với các loại hình tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, thờ Quốc Mẫu Vua Bà, thờ Thần núi Tản Viên, thờ Thành hoàng cùng rất nhiều những tín ngưỡng, lễ nghi nông nghiệp khác đã phần nào thoả mãn nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần, tâm linh của đồng bào dân tộc Mường.

Bên cạnh đó, hệ thống tín ngưỡng của người Mường đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn giá trị văn hoá truyền thống, giáo dục và hướng con người đến những giá trị Chân – Thiện – Mỹ.

Văn hóa tâm linh

Phong tục tập quán của người Chăm

Dân tộc Chăm tại Việt Nam có một số đặc điểm văn hóa riêng biệt như ngôn ngữ, tôn giáo, trang phục, phong tục tập quán và kiến trúc.

714

Người Chăm sinh sống ở đâu?

Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 1/4/2019: Tổng dân số: 178.948 người. Trong đó, nam: 87.838 người; nữ: 91.110 người. Tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn: 83,8%.

Từ nhiều năm về trước, người Chăm đã sinh sống tập trung tại duyên hải miền Trung Việt Nam. Đặc biệt các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận được biết đến là địa bàn cư trú đông đúc nhất của người Chăm. Những người dân Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bà La Môn. Còn những người Chăm sinh sống ở các vùng khác như Tây Ninh, Đồng Nai, An Giang, thành phố Hồ Chí Minh… lại chủ yếu theo Hồi Giáo (Islam).

Ngôn ngữ chính của người Chăm

Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo).

Người Chăm thường ăn gì?

Về chuyện ăn uống, người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung. Thức ăn rất phong phú, gồm có cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại, hoàn toàn tự cung tự cấp. Thức uống yêu thích và truyền thống của họ là rượu cần, rượu gạo.

Phong tục tập quán của người Chăm

Đặc biệt trong những ngày lễ hội văn hóa dân tộc Chăm; bạn sẽ thấy có những chiếc bình rượu cần rất lớn; được đặt ở giữa sân lễ, mọi người cùng nhảy múa; hát hò và thưởng thức rượu cần Chăm đặc sắc.

Ngoài ra, tục ăn trầu cũng vẫn rất phổ biến ở người Chăm; cả trong sinh hoạt và những lễ nghi truyền thống.

Nơi ở của người Chăm

Người Chăm thường ở nhà đất dạng nhà trệt. Mỗi gia đình lớn sẽ xây dựng nhà cửa gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.

Phong tục tập quán của người Chăm

Trang phục truyền thống dân tộc Chăm

Nam, nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông.

Phong tục tập quán của người Chăm

Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.

Người Chăm thường làm nghề gì?

Một trong những phong tục tập quán của dân tộc Chăm là truyền thống làm nông nghiệp, làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Ngoài ra, một số bộ phận người Chăm sinh sống ở Nam Bộ lại chủ yếu sống bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, còn nghề nông chỉ là thứ yếu. Nghề thủ công nổi tiếng của người Chăm là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên.

Quan hệ xã hội của người Chăm

Người Chăm có truyền thống sinh sống theo mẫu hệ. Phụ nữ sẽ làm chủ trong gia đình. Cưới hỏi do nhà gái chủ động và lo liệu; từ việc sính lễ, nhà ở sau cưới… Phụ nữ cũng là người sẽ chủ động trong quan hệ luyến ái, con sinh ra đều theo họ mẹ. Ở những vùng theo Hồi giáo, tuy gia đình đã chuyển sang quan hệ phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao hơn, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá sâu đậm trong mỗi gia đình.

Phong tục tập quán của người Chăm

Lễ hội dân tộc Chăm

Người Chăm có rất nhiều lễ hội, diễn ra quanh năm, đặc biệt là những lễ hội nông nghiệp: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng… Và lễ hội lớn nhất là lễ Bon katê thường được tổ chức vào giữa tháng mười âm lịch hàng năm.

Ngoài ra, hàng năm, vào thứ bảy của tháng 11 theo lịch Chăm còn tổ chức tục thả diều. Lễ tục này đồng bào Chăm gọi là Papăn kalang Pô Yang In để phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, cầu hạnh phúc và mùa màng bội thu.

3 làng nghề truyền thống trong văn hoá Chăm

Khi nhắc đến những nét đặc sắc; tiêu biểu của văn hóa Chăm Pa thì không thể bỏ qua được các làng nghề truyền thống. Ba làng nghề truyền thống của người Chăm được công nhận chính thức gồm 2 làng dệt là Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ và làng gốm Bàu Trúc. Làng gốm Bàu Trúc và làng dệt Mỹ Nghiệp là 2 làng nghề nằm trong danh sách bảo tồn và phát triển và cũng là địa điểm du lịch văn hóa của người dân Chăm Pa.

Phong tục tập quán của người Chăm

Làng gốm Bàu Trúc được xem như là một bảo tàng mang đặc tính gốm truyền thống, phong tục của dân tộc Chăm với những tác phẩm gốm tuyệt vời; mẫu mã phóng phú được nhào nặn khéo léo bởi các nghệ nhân gốm tài ba. Một trong những nguyên vật liệu quan trọng góp phần tạo ra những sản phẩm gốm tuyệt vời là đất sét.

Đây là một loại đất sét đặc biệt được lấy bên bờ sông Quao. Sau đó đem về đập nhỏ và trộn với cát mịn nhào nhuyễn; lượng cát được trộn vào tùy thuộc theo kích thước và công dụng của mỗi loại sản phẩm. Điểm đặc biệt tạo nên nét đặc sắc trong sản phẩm gốm của làng Bàu Trúc; là các hoa văn trang trí với những khắc vạch hình sông nước; chấm vỏ sò và hoa văn thực vật mộc mạc, gần gũi và nhẹ nhàng.

Các công trình kiến trúc lịch sử của dân tộc Chăm

Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự ấn tượng cho văn hóa dân tộc Chăm đó chính là các công trình kiến trúc; di tích lịch sử đồ sộ và độc đáo. Nhờ bàn tay tài ba, khéo léo và sự sáng tạo; người Chăm đã tạo nên những công trình kiến trúc gây được sự thu hút mạnh mẽ với nhiều du khách trên thế giới.

Khi đặt chân đến với những vùng đất mang những dấu ấn của người Chăm như Bình Thuận; Quảng Trị; Thừa Thiên Huế; Quảng Nam; Khánh Hòa; du khách sẽ được cơ hội chiêm ngưỡng ngọn tháp cổ sừng sững áng ngữ các ngọn đồi trọc giữa cảnh đẹp hùng vĩ của thiên nhiên núi non trùng điệp.

Quảng Nam từng là nơi trung tâm kinh tế; chính trị của người Chăm Pa cũ nên du khách khi đến đay có thể bắt gặp nhiều ngọn tháp đa dạng và đồ sộ nhất như Thánh địa Mỹ Sơn. Ngoài ra còn có những di tích của người Chăm như Tháp Bạc; Tháp Dương Long của Bình Định; ngọn tháp Po Nagar nổi tiếng của Khánh Hòa; Tháp Nhạn – Phú Yên; Tháp Po Dam – Bình Thuận.

Người Chăm sinh sống ở đâu?

Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 1/4/2019: Tổng dân số: 178.948 người. Trong đó, nam: 87.838 người; nữ: 91.110 người. Tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn: 83,8%.

Từ nhiều năm về trước, người Chăm đã sinh sống tập trung tại duyên hải miền Trung Việt Nam. Đặc biệt các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận được biết đến là địa bàn cư trú đông đúc nhất của người Chăm. Những người dân Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bà La Môn. Còn những người Chăm sinh sống ở các vùng khác như Tây Ninh, Đồng Nai, An Giang, thành phố Hồ Chí Minh… lại chủ yếu theo Hồi Giáo (Islam).

Ngôn ngữ chính của người Chăm

Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo).

Người Chăm thường ăn gì?

Về chuyện ăn uống, người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung. Thức ăn rất phong phú, gồm có cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại, hoàn toàn tự cung tự cấp. Thức uống yêu thích và truyền thống của họ là rượu cần, rượu gạo.

Phong tục tập quán của người Chăm

Đặc biệt trong những ngày lễ hội văn hóa dân tộc Chăm; bạn sẽ thấy có những chiếc bình rượu cần rất lớn; được đặt ở giữa sân lễ, mọi người cùng nhảy múa; hát hò và thưởng thức rượu cần Chăm đặc sắc.

Ngoài ra, tục ăn trầu cũng vẫn rất phổ biến ở người Chăm; cả trong sinh hoạt và những lễ nghi truyền thống.

Nơi ở của người Chăm

Người Chăm thường ở nhà đất dạng nhà trệt. Mỗi gia đình lớn sẽ xây dựng nhà cửa gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.

Phong tục tập quán của người Chăm

Trang phục truyền thống dân tộc Chăm

Nam, nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông.

Phong tục tập quán của người Chăm

Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.

Người Chăm thường làm nghề gì?

Một trong những phong tục tập quán của dân tộc Chăm là truyền thống làm nông nghiệp, làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Ngoài ra, một số bộ phận người Chăm sinh sống ở Nam Bộ lại chủ yếu sống bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, còn nghề nông chỉ là thứ yếu. Nghề thủ công nổi tiếng của người Chăm là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên.

Quan hệ xã hội của người Chăm

Người Chăm có truyền thống sinh sống theo mẫu hệ. Phụ nữ sẽ làm chủ trong gia đình. Cưới hỏi do nhà gái chủ động và lo liệu; từ việc sính lễ, nhà ở sau cưới… Phụ nữ cũng là người sẽ chủ động trong quan hệ luyến ái, con sinh ra đều theo họ mẹ. Ở những vùng theo Hồi giáo, tuy gia đình đã chuyển sang quan hệ phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao hơn, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá sâu đậm trong mỗi gia đình.

Phong tục tập quán của người Chăm

Lễ hội dân tộc Chăm

Người Chăm có rất nhiều lễ hội, diễn ra quanh năm, đặc biệt là những lễ hội nông nghiệp: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng… Và lễ hội lớn nhất là lễ Bon katê thường được tổ chức vào giữa tháng mười âm lịch hàng năm.

Ngoài ra, hàng năm, vào thứ bảy của tháng 11 theo lịch Chăm còn tổ chức tục thả diều. Lễ tục này đồng bào Chăm gọi là Papăn kalang Pô Yang In để phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, cầu hạnh phúc và mùa màng bội thu.

3 làng nghề truyền thống trong văn hoá Chăm

Khi nhắc đến những nét đặc sắc; tiêu biểu của văn hóa Chăm Pa thì không thể bỏ qua được các làng nghề truyền thống. Ba làng nghề truyền thống của người Chăm được công nhận chính thức gồm 2 làng dệt là Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ và làng gốm Bàu Trúc. Làng gốm Bàu Trúc và làng dệt Mỹ Nghiệp là 2 làng nghề nằm trong danh sách bảo tồn và phát triển và cũng là địa điểm du lịch văn hóa của người dân Chăm Pa.

Phong tục tập quán của người Chăm

Làng gốm Bàu Trúc được xem như là một bảo tàng mang đặc tính gốm truyền thống, phong tục của dân tộc Chăm với những tác phẩm gốm tuyệt vời; mẫu mã phóng phú được nhào nặn khéo léo bởi các nghệ nhân gốm tài ba. Một trong những nguyên vật liệu quan trọng góp phần tạo ra những sản phẩm gốm tuyệt vời là đất sét.

Đây là một loại đất sét đặc biệt được lấy bên bờ sông Quao. Sau đó đem về đập nhỏ và trộn với cát mịn nhào nhuyễn; lượng cát được trộn vào tùy thuộc theo kích thước và công dụng của mỗi loại sản phẩm. Điểm đặc biệt tạo nên nét đặc sắc trong sản phẩm gốm của làng Bàu Trúc; là các hoa văn trang trí với những khắc vạch hình sông nước; chấm vỏ sò và hoa văn thực vật mộc mạc, gần gũi và nhẹ nhàng.

Các công trình kiến trúc lịch sử của dân tộc Chăm

Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự ấn tượng cho văn hóa dân tộc Chăm đó chính là các công trình kiến trúc; di tích lịch sử đồ sộ và độc đáo. Nhờ bàn tay tài ba, khéo léo và sự sáng tạo; người Chăm đã tạo nên những công trình kiến trúc gây được sự thu hút mạnh mẽ với nhiều du khách trên thế giới.

Khi đặt chân đến với những vùng đất mang những dấu ấn của người Chăm như Bình Thuận; Quảng Trị; Thừa Thiên Huế; Quảng Nam; Khánh Hòa; du khách sẽ được cơ hội chiêm ngưỡng ngọn tháp cổ sừng sững áng ngữ các ngọn đồi trọc giữa cảnh đẹp hùng vĩ của thiên nhiên núi non trùng điệp.

Quảng Nam từng là nơi trung tâm kinh tế; chính trị của người Chăm Pa cũ nên du khách khi đến đay có thể bắt gặp nhiều ngọn tháp đa dạng và đồ sộ nhất như Thánh địa Mỹ Sơn. Ngoài ra còn có những di tích của người Chăm như Tháp Bạc; Tháp Dương Long của Bình Định; ngọn tháp Po Nagar nổi tiếng của Khánh Hòa; Tháp Nhạn – Phú Yên; Tháp Po Dam – Bình Thuận.

Văn hóa tâm linh

Phong tục tập quán của người Dao ở Tuyên Quang

Dân tộc Dao là một trong 54 dân tộc anh em trong đất nước Việt Nam. Dân tộc Dao theo nhóm ngôn ngữ Hmông-Dao, với chữ viết riêng là nôm Dao.

674

Hiện nay, người Dao ước tính có hơn 750.000 người, sống ở vùng lưng chừng núi hầu hết các tỉnh miền núi miền Bắc nước ta.

Dân tộc Dao ở Tuyên Quang

Với gần 100.000 người Dao cư trú trên địa bàn, tỉnh Tuyên Quang là địa phương duy nhất của cả nước quy tụ đầy đủ chín ngành Dao: Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Coóc Mùn, Dao Quần Chẹt, Dao Ô Gang (có nơi gọi là Lồ Gang), Dao Coóc Ngáng, Dao Quần Trắng, Dao Thanh Y, Dao Áo Dài.

Về hoạt động sản xuất, người Dao phổ biến là làm nương, thổ canh trên hốc đá và canh tác ruộng. Cây lương thực chính của họ là lúa, ngô và các loại rau màu như bầu, bí, khoai… Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao và họ ưa dùng vải nhuộm chàm. Hầu hết các xóm tộc người Dao đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ, nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Người Dao cũng có nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức…

Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài, yếm, váy hoặc quần, y phục thêu rất sặc sỡ. Bộ y phục của người phụ nữ Dao là chiếc áo được thiết kế dài đến gần đầu gối. Cổ áo được thiết kế theo hình chữ V có thêu hoa văn, lưng áo cũng thêu hoa văn. Theo quan niệm của đồng bào Dao, nhìn vào cách thêu hoa văn ở phần đuôi áo của người phụ nữ sẽ biết được người phụ nữ khéo hay không, có đảm đang hay không. Còn đàn ông Dao, trước đây để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn.

Phong tục tập quán của người Dao ở Tuyên Quang

Mặc dù sống ở khu vực núi và địa bàn riêng biệt, nhưng phương tiện vận chuyển của đồng bào Dao vẫn có nhiều nét tương đồng với các dân tộc khác về chủng loại, cách thức chế tác và chức năng sử dụng. Để chuyển hàng họ thường dùng địu, quẩy tấu (một loại sọt) hay lù cở (giống gùi) có hai quai đeo phía sau, để lên rừng hái quả hoặc thu hoạch nông sản. Ở những vùng thấp hơn, người Dao thường dùng đôi dậu để gánh lúa, ngô và những vật dụng khác.

Dù sinh sống ở nhiều vùng miền, nhưng sinh hoạt cộng đồng của đồng bào dân tộc Dao vẫn mang tính chất khép kín, thể hiện qua phong tục tập quán, qua hôn nhân. Khi dựng vợ gả chồng cho con cái, đồng bào Dao chỉ mong gả trong cộng đồng dân tộc mình.

Phong tục tập quán người Dao ở Tuyên Quang

Có thể nói, đồng bào Dao ở Tuyên Quang có đời sống văn hóa tinh thần rất phong phú với nhiều phong tục, nghi lễ, nghệ thuật đặc sắc. Theo ông Nguyễn Vũ Phan, quyền Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang, “văn hóa dân tộc Dao rất sống động và đa dạng, các nhánh Dao cũng tương đối phong phú, mỗi nhóm đều có những nét đặc trưng riêng biệt, tất cả cùng cộng hưởng để tạo nên bức tranh đa sắc, nhiều giá trị độc đáo của dân tộc này”.

Tục thờ cúng của người Dao

Đối với người Dao, việc thờ cúng đặc biệt được chú trọng, vì vậy các nghi lễ liên quan đến thờ cúng tổ tiên luôn được đồng bào duy trì, thể hiện với những nghi lễ độc đáo, đặc sắc. Nghi lễ thờ cúng nói chung của người Dao mang đậm tính nhân văn, hướng con người nhớ đến nguồn cội, xua đuổi cái ác và là sợi dây liên kết cộng đồng sâu sắc. Trong nghi lễ thờ cúng, người Dao sử dụng nhiều tranh cúng và mỗi dịp lễ, Tết, lại có những loại tranh cúng riêng; trong đó phổ biến là bộ tranh Tam Tượng (hay còn gọi là Tam Thanh) và bộ Đại Đường Quân. Tranh thờ không chỉ là tín ngưỡng mà còn thể hiện niềm tin của người Dao với cuộc sống. Đồng bào quan niệm, các vị thần linh luôn nhìn thấu mọi việc và sẵn sàng phạt người nào định làm điều ác. Chỉ cần nhìn ngắm bức tranh có các vị thần được khắc họa oai nghiêm là những ai có ý định làm việc xấu sẽ phải dừng lại.

Lễ cấp sắc của dân tộc Dao

Lễ cấp sắc  là một trong những nét văn hóa truyền thống đặc sắc nhất của dân tộc Dao. Theo quan niệm của đồng bào, lễ cấp sắc là một thủ tục không thể thiếu của người đàn ông dân tộc Dao, được cấp sắc mới được coi là người đàn ông đã trưởng thành và có đủ quyền tham gia các công việc của cộng đồng. Lễ cấp sắc của người Dao thường được tổ chức vào tháng 11, 12 hoặc tháng Giêng hàng năm, với rất nhiều nghi lễ đa dạng và độc đáo của các ngành đồng bào Dao. Mỗi ngành Dao đều có không gian hành lễ, mang đặc trưng riêng. Với những giá trị đặc sắc, nghi lễ cấp sắc của người Dao ở Tuyên Quang đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Hát Páo Dung của dân tộc Dao

Hát Páo Dung được coi là như một trong những báu vật văn hóa của dân tộc Dao. Hát Páo Dung thể hiện những tâm tư, tình cảm và ước muốn của người Dao trong cuộc sống thường ngày. Ở mỗi ngành Dao, Páo Dung lại được biểu diễn khác nhau, có vùng thì với âm điệu trầm kéo dài, có vùng âm điệu lại cao, bay bổng. Tuy có sự khác nhau về cách thể hiện giữa các ngành Dao, nhưng những làn điệu Páo Dung của đồng bào Dao ở Tuyên Quang đều có nét chung là đề cao lẽ sống, cách ứng xử, ca ngợi thiên nhiên và tinh thần lao động sáng tạo. Với những nét độc đáo, nghệ thuật hát Páo Dung cũng đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Hiện nay, người Dao ước tính có hơn 750.000 người, sống ở vùng lưng chừng núi hầu hết các tỉnh miền núi miền Bắc nước ta.

Dân tộc Dao ở Tuyên Quang

Với gần 100.000 người Dao cư trú trên địa bàn, tỉnh Tuyên Quang là địa phương duy nhất của cả nước quy tụ đầy đủ chín ngành Dao: Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Coóc Mùn, Dao Quần Chẹt, Dao Ô Gang (có nơi gọi là Lồ Gang), Dao Coóc Ngáng, Dao Quần Trắng, Dao Thanh Y, Dao Áo Dài.

Về hoạt động sản xuất, người Dao phổ biến là làm nương, thổ canh trên hốc đá và canh tác ruộng. Cây lương thực chính của họ là lúa, ngô và các loại rau màu như bầu, bí, khoai… Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao và họ ưa dùng vải nhuộm chàm. Hầu hết các xóm tộc người Dao đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ, nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Người Dao cũng có nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức…

Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài, yếm, váy hoặc quần, y phục thêu rất sặc sỡ. Bộ y phục của người phụ nữ Dao là chiếc áo được thiết kế dài đến gần đầu gối. Cổ áo được thiết kế theo hình chữ V có thêu hoa văn, lưng áo cũng thêu hoa văn. Theo quan niệm của đồng bào Dao, nhìn vào cách thêu hoa văn ở phần đuôi áo của người phụ nữ sẽ biết được người phụ nữ khéo hay không, có đảm đang hay không. Còn đàn ông Dao, trước đây để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn.

Phong tục tập quán của người Dao ở Tuyên Quang

Mặc dù sống ở khu vực núi và địa bàn riêng biệt, nhưng phương tiện vận chuyển của đồng bào Dao vẫn có nhiều nét tương đồng với các dân tộc khác về chủng loại, cách thức chế tác và chức năng sử dụng. Để chuyển hàng họ thường dùng địu, quẩy tấu (một loại sọt) hay lù cở (giống gùi) có hai quai đeo phía sau, để lên rừng hái quả hoặc thu hoạch nông sản. Ở những vùng thấp hơn, người Dao thường dùng đôi dậu để gánh lúa, ngô và những vật dụng khác.

Dù sinh sống ở nhiều vùng miền, nhưng sinh hoạt cộng đồng của đồng bào dân tộc Dao vẫn mang tính chất khép kín, thể hiện qua phong tục tập quán, qua hôn nhân. Khi dựng vợ gả chồng cho con cái, đồng bào Dao chỉ mong gả trong cộng đồng dân tộc mình.

Phong tục tập quán người Dao ở Tuyên Quang

Có thể nói, đồng bào Dao ở Tuyên Quang có đời sống văn hóa tinh thần rất phong phú với nhiều phong tục, nghi lễ, nghệ thuật đặc sắc. Theo ông Nguyễn Vũ Phan, quyền Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang, “văn hóa dân tộc Dao rất sống động và đa dạng, các nhánh Dao cũng tương đối phong phú, mỗi nhóm đều có những nét đặc trưng riêng biệt, tất cả cùng cộng hưởng để tạo nên bức tranh đa sắc, nhiều giá trị độc đáo của dân tộc này”.

Tục thờ cúng của người Dao

Đối với người Dao, việc thờ cúng đặc biệt được chú trọng, vì vậy các nghi lễ liên quan đến thờ cúng tổ tiên luôn được đồng bào duy trì, thể hiện với những nghi lễ độc đáo, đặc sắc. Nghi lễ thờ cúng nói chung của người Dao mang đậm tính nhân văn, hướng con người nhớ đến nguồn cội, xua đuổi cái ác và là sợi dây liên kết cộng đồng sâu sắc. Trong nghi lễ thờ cúng, người Dao sử dụng nhiều tranh cúng và mỗi dịp lễ, Tết, lại có những loại tranh cúng riêng; trong đó phổ biến là bộ tranh Tam Tượng (hay còn gọi là Tam Thanh) và bộ Đại Đường Quân. Tranh thờ không chỉ là tín ngưỡng mà còn thể hiện niềm tin của người Dao với cuộc sống. Đồng bào quan niệm, các vị thần linh luôn nhìn thấu mọi việc và sẵn sàng phạt người nào định làm điều ác. Chỉ cần nhìn ngắm bức tranh có các vị thần được khắc họa oai nghiêm là những ai có ý định làm việc xấu sẽ phải dừng lại.

Lễ cấp sắc của dân tộc Dao

Lễ cấp sắc  là một trong những nét văn hóa truyền thống đặc sắc nhất của dân tộc Dao. Theo quan niệm của đồng bào, lễ cấp sắc là một thủ tục không thể thiếu của người đàn ông dân tộc Dao, được cấp sắc mới được coi là người đàn ông đã trưởng thành và có đủ quyền tham gia các công việc của cộng đồng. Lễ cấp sắc của người Dao thường được tổ chức vào tháng 11, 12 hoặc tháng Giêng hàng năm, với rất nhiều nghi lễ đa dạng và độc đáo của các ngành đồng bào Dao. Mỗi ngành Dao đều có không gian hành lễ, mang đặc trưng riêng. Với những giá trị đặc sắc, nghi lễ cấp sắc của người Dao ở Tuyên Quang đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Hát Páo Dung của dân tộc Dao

Hát Páo Dung được coi là như một trong những báu vật văn hóa của dân tộc Dao. Hát Páo Dung thể hiện những tâm tư, tình cảm và ước muốn của người Dao trong cuộc sống thường ngày. Ở mỗi ngành Dao, Páo Dung lại được biểu diễn khác nhau, có vùng thì với âm điệu trầm kéo dài, có vùng âm điệu lại cao, bay bổng. Tuy có sự khác nhau về cách thể hiện giữa các ngành Dao, nhưng những làn điệu Páo Dung của đồng bào Dao ở Tuyên Quang đều có nét chung là đề cao lẽ sống, cách ứng xử, ca ngợi thiên nhiên và tinh thần lao động sáng tạo. Với những nét độc đáo, nghệ thuật hát Páo Dung cũng đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Văn hóa tâm linh

Vài nét tiêu biểu về văn hóa của dân tộc Kinh

Dân tộc Kinh có những nét văn hóa đa dạng, phong phú, vô cùng đặc sắc, và có nền ẩm thực độc đáo, chứa đựng mọi tinh hoa của dân tộc.

1254

Dân tộc Kinh chiếm khoảng 90% dân số của cả nước và sinh sống ở khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy, họ sở hữu các công trình kiến trúc, danh lam thắng cảnh nổi tiếng và có bản sắc văn hóa rất độc đáo và khác biệt.

Phong tục tập quán

Dân tộc Kinh có truyền thống đoàn kết, gắn bó, cần cù, sáng tạo những giá trị đậm đà bản sắc dân tộc và phát huy truyền thống lâu dài của cha ông, họ còn lưu giữ và tiếp nối các phong tục tập quán của tổ tiên để lại.

Dân tộc Kinh có phong tục tập quán với những nét đặc trưng khác biệt và đặc sắc. Có thể kể tới một số phong tục tập quán như: ăn trầu cau, uống nước chè, uống nước vối.

Vài nét tiêu biểu về văn hóa của dân tộc Kinh

Trong các bữa ăn đời thường, dân tộc Kinh ăn cơm tẻ, cơm nếp hoặc cháo, xôi và một trong những món ăn độc đáo. Sự khác biệt của dân tộc Kinh với các dân tộc khác trên cả nước đó chính là món mắm tôm, trứng vịt lộn.

Bên cạnh đó, nhà ở của người Kinh sẽ là nhà trệt, giữa nhà đặt bàn thờ gia tiên. Ở mỗi một vùng miền sẽ có những kiểu nhà khác nhau, miền Bắc thường là nhà ba gian hai trái còn miền Trung là nhà rường hoặc nhà mái lá.

Ngoài ra, dân tộc Kinh còn có những phong tục tập quán khác như hôn nhân theo chế độ một vợ một chồng, lễ tết Nguyên Đán, Rằm tháng giêng, tết Đoan Ngọ, tết Trung thu.

Ẩm thực

Một trong những nét đặc sắc tạo nên sức thu hút của văn hóa dân tộc Kinh với nhiều người trên khắp thế giới đó chính là nền ẩm thực vô cùng phong phú và độc đáo. Đã từ bao đời, những món ăn của người Kinh luôn có một sự hấp dẫn đối với mọi thực khách. Mỗi một vùng miền sẽ có những món ăn mang hương vị khác nhau nhưng chính sự khác biệt đó đã tạo nên một bức tranh muôn màu sắc và phong phú cho nền ẩm thực Việt.

Những món ăn từ ba miền Bắc, Trung, Nam mặc dù có sự riêng biệt trong cách chế biến và cách sử dụng nguyên liệu nhưng lại có thể cùng hòa thanh trên bàn tiệc ẩm thực Việt. Tuy có sự khác biệt về hương vị nhưng những món ăn của dân tộc Kinh luôn có một điểm chung là nhất định phải có nước chấm và gia vị.

Vài nét tiêu biểu về văn hóa của dân tộc Kinh

Ẩm thực miền Bắc thường rất cầu kỳ trong việc chọn lựa các nguyên liệu và chú trọng trong cách phối hợp các loại gia vị. Một trong những món đặc trưng và nổi tiếng của miền Bắc như phở bò, bánh tôm Hồ Tây, bún chả, bún thang. Còn ẩm thực miền Trung thì có hương vị riêng biệt, cay nồng và mặn hơn đồ ăn của người miền Bắc và miền Nam.

Những món ăn đặc sắc của miền Trung là bún bò Huế, bánh xèo, bánh bột lọc, cao lầu, mì quảng. Người miền Nam thường chuộng những món ăn có hương vị ngọt ngào và béo tiêu biểu là món cơm tấm, gỏi cuốn, bánh bò, chè ba ba.

Trang phục

Nét văn hóa tiêu biểu của dân tộc Kinh được thể hiện qua trang phục khá đa dạng, từ màu sắc, chất liệu, cách may mặc được thể hiện qua các kiểu áo quần, nón mũ, giày dép trong cuộc sống thường nhật hay các dịp lễ hội.

Trang phục ngày thường

Trang phục nam thường ngày mặc áo cách nâu, cổ tròn mặc với quần lá tọa ống rộng.

Trang phục nữ, đối với Bắc và bắc Trung bộ người nữ thường mặc áo cách ngắn vải nâu phía trong mặc yếm cùng với váy. Váy là loại váy kín được buộc bằng thắt lưng, khi ra đường họ thường mang khăn vuông,hoặc các loại nón: thúng, ba tầm…

Vài nét tiêu biểu về văn hóa của dân tộc Kinh

Phụ nữ Nam Bộ thường ngày mặc áo bà ba với phụ trang đi kèm là chiếc khăn rằn thường có ô vuông xen kẽ hai màu. Chiếc nón lá cũng là phụ kiện che nắng che mưa của người phụ nữ Nam Bộ.

Trang phục các dịp lễ, tết, hội hè

Nam thường mặc áo dài màu đen, đầu đội khăn xếp với quần tọa màu trắng. Áo dài xẻ nách hai bên, không trang trí hoa văn. Chân đi guốc mộc.

Trong những dịp này phụ nữ Việt thường mang áo dài, để tóc dài vấn khăn thành vành tròn quanh đầu. Kết hợp với đồ trang sức là các loại trâm, vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay mang phong cách từng vùng.

Lễ hội

Đã từ bao đời, những lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc luôn là một trong những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc Kinh. Mọi người dân mang dòng máu Việt Nam không chỉ giữ gìn mà còn tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống cao đẹp ấy. Dân tộc Kinh có rất nhiều những lễ hội cổ truyền đa dạng, độc đáo ở khắp mọi vùng miền trên đất nước. Tại mỗi vùng đều có những lễ hội mang nét tiêu biểu và giá trị khác nhau.

Vài nét tiêu biểu về văn hóa của dân tộc Kinh

Những lễ hội truyền thống là dịp để mọi người giao lưu, truyền lại những đạo đức, luân lý về khát vọng tốt đẹp, đồng thời còn ca ngợi những chiến tích của các vị vua, anh hùng đã có công dựng nước và giữ nước.

Một số lễ hội tiêu biểu của dân tộc Kinh có thể kể tới là lễ hội Đền Hùng, lễ hội chùa Hương, lễ hội Yên Tử, lễ hội chùa Bãi Đính.

Dân tộc Kinh chiếm khoảng 90% dân số của cả nước và sinh sống ở khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy, họ sở hữu các công trình kiến trúc, danh lam thắng cảnh nổi tiếng và có bản sắc văn hóa rất độc đáo và khác biệt.

Phong tục tập quán

Dân tộc Kinh có truyền thống đoàn kết, gắn bó, cần cù, sáng tạo những giá trị đậm đà bản sắc dân tộc và phát huy truyền thống lâu dài của cha ông, họ còn lưu giữ và tiếp nối các phong tục tập quán của tổ tiên để lại.

Dân tộc Kinh có phong tục tập quán với những nét đặc trưng khác biệt và đặc sắc. Có thể kể tới một số phong tục tập quán như: ăn trầu cau, uống nước chè, uống nước vối.

Vài nét tiêu biểu về văn hóa của dân tộc Kinh

Trong các bữa ăn đời thường, dân tộc Kinh ăn cơm tẻ, cơm nếp hoặc cháo, xôi và một trong những món ăn độc đáo. Sự khác biệt của dân tộc Kinh với các dân tộc khác trên cả nước đó chính là món mắm tôm, trứng vịt lộn.

Bên cạnh đó, nhà ở của người Kinh sẽ là nhà trệt, giữa nhà đặt bàn thờ gia tiên. Ở mỗi một vùng miền sẽ có những kiểu nhà khác nhau, miền Bắc thường là nhà ba gian hai trái còn miền Trung là nhà rường hoặc nhà mái lá.

Ngoài ra, dân tộc Kinh còn có những phong tục tập quán khác như hôn nhân theo chế độ một vợ một chồng, lễ tết Nguyên Đán, Rằm tháng giêng, tết Đoan Ngọ, tết Trung thu.

Ẩm thực

Một trong những nét đặc sắc tạo nên sức thu hút của văn hóa dân tộc Kinh với nhiều người trên khắp thế giới đó chính là nền ẩm thực vô cùng phong phú và độc đáo. Đã từ bao đời, những món ăn của người Kinh luôn có một sự hấp dẫn đối với mọi thực khách. Mỗi một vùng miền sẽ có những món ăn mang hương vị khác nhau nhưng chính sự khác biệt đó đã tạo nên một bức tranh muôn màu sắc và phong phú cho nền ẩm thực Việt.

Những món ăn từ ba miền Bắc, Trung, Nam mặc dù có sự riêng biệt trong cách chế biến và cách sử dụng nguyên liệu nhưng lại có thể cùng hòa thanh trên bàn tiệc ẩm thực Việt. Tuy có sự khác biệt về hương vị nhưng những món ăn của dân tộc Kinh luôn có một điểm chung là nhất định phải có nước chấm và gia vị.

Vài nét tiêu biểu về văn hóa của dân tộc Kinh

Ẩm thực miền Bắc thường rất cầu kỳ trong việc chọn lựa các nguyên liệu và chú trọng trong cách phối hợp các loại gia vị. Một trong những món đặc trưng và nổi tiếng của miền Bắc như phở bò, bánh tôm Hồ Tây, bún chả, bún thang. Còn ẩm thực miền Trung thì có hương vị riêng biệt, cay nồng và mặn hơn đồ ăn của người miền Bắc và miền Nam.

Những món ăn đặc sắc của miền Trung là bún bò Huế, bánh xèo, bánh bột lọc, cao lầu, mì quảng. Người miền Nam thường chuộng những món ăn có hương vị ngọt ngào và béo tiêu biểu là món cơm tấm, gỏi cuốn, bánh bò, chè ba ba.

Trang phục

Nét văn hóa tiêu biểu của dân tộc Kinh được thể hiện qua trang phục khá đa dạng, từ màu sắc, chất liệu, cách may mặc được thể hiện qua các kiểu áo quần, nón mũ, giày dép trong cuộc sống thường nhật hay các dịp lễ hội.

Trang phục ngày thường

Trang phục nam thường ngày mặc áo cách nâu, cổ tròn mặc với quần lá tọa ống rộng.

Trang phục nữ, đối với Bắc và bắc Trung bộ người nữ thường mặc áo cách ngắn vải nâu phía trong mặc yếm cùng với váy. Váy là loại váy kín được buộc bằng thắt lưng, khi ra đường họ thường mang khăn vuông,hoặc các loại nón: thúng, ba tầm…

Vài nét tiêu biểu về văn hóa của dân tộc Kinh

Phụ nữ Nam Bộ thường ngày mặc áo bà ba với phụ trang đi kèm là chiếc khăn rằn thường có ô vuông xen kẽ hai màu. Chiếc nón lá cũng là phụ kiện che nắng che mưa của người phụ nữ Nam Bộ.

Trang phục các dịp lễ, tết, hội hè

Nam thường mặc áo dài màu đen, đầu đội khăn xếp với quần tọa màu trắng. Áo dài xẻ nách hai bên, không trang trí hoa văn. Chân đi guốc mộc.

Trong những dịp này phụ nữ Việt thường mang áo dài, để tóc dài vấn khăn thành vành tròn quanh đầu. Kết hợp với đồ trang sức là các loại trâm, vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay mang phong cách từng vùng.

Lễ hội

Đã từ bao đời, những lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc luôn là một trong những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc Kinh. Mọi người dân mang dòng máu Việt Nam không chỉ giữ gìn mà còn tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống cao đẹp ấy. Dân tộc Kinh có rất nhiều những lễ hội cổ truyền đa dạng, độc đáo ở khắp mọi vùng miền trên đất nước. Tại mỗi vùng đều có những lễ hội mang nét tiêu biểu và giá trị khác nhau.

Vài nét tiêu biểu về văn hóa của dân tộc Kinh

Những lễ hội truyền thống là dịp để mọi người giao lưu, truyền lại những đạo đức, luân lý về khát vọng tốt đẹp, đồng thời còn ca ngợi những chiến tích của các vị vua, anh hùng đã có công dựng nước và giữ nước.

Một số lễ hội tiêu biểu của dân tộc Kinh có thể kể tới là lễ hội Đền Hùng, lễ hội chùa Hương, lễ hội Yên Tử, lễ hội chùa Bãi Đính.

Văn hóa tâm linh

Phong tục tập quán của người Ê đê

Phong tục tập quán của người Ê đê có những điểm riêng biệt so với các dân tộc khác. Đó là: Chế độ mẫu hệ, tục kết nghĩa, tục nối dây.

1193

Chế độ mẫu hệ của người Ê đê

Ê đê là một trong số ít dân tộc của Việt Nam duy trì chế độ mẫu hệ. Theo đó, trong các gia đình Ê đê thì phụ nữ chính là người làm chủ, là trụ cột. Đàn ông sau khi lấy vợ Ê đê phải về sinh sống tại nhà vợ và những đứa con sau khi được sinh ra cũng đều mang họ mẹ. Bên cạnh đó, con gái sẽ là những người được hưởng tài sản thừa kế của cha mẹ mình.

Phong tục tập quán của người Ê đê

Ngoài ra, chế độ mẫu hệ còn được thể hiện ở một số yếu tố khác. Trong đó có thể kể đến như chiếc chuông H’gơr tượng trưng cho người phụ nữ. Sau khi tiếng chuông này vang lên thì những chiếc chuông khác trong giàn chuông mới được phép diễn tấu. Buôn làng cũng thường mang tên người phụ nữ đã tìm bến nước. Những ngôi nhà dài cũng được người phụ nữ trong gia đình quản lý.

Lễ kết nghĩa của người Ê đê

Kết nghĩa là một trong những tục lệ phổ biến nhất của người Ê đê. Đối với người dân nơi đây, tục kết nghĩa sẽ giúp cho tình cảm của các thành viên trong gia đình được thắt chặt hơn. Từ đó, tinh thần, trách nhiệm của các thành viên đối với nhau cũng vì vậy mà trở nên khăng khít. Điều này góp phần tạo nên sự gắn bó và thống nhất trong một dòng họ.

Đối với người Ê đê, mối quan hệ Ê đê đầu tiên được xây dựng trên quan hệ giữa những người cùng huyết thống, là họ hàng với nhau. Ngoài ra, nó còn là sự liên kết của những người mang cùng một họ. Hơn nữa, mối quan hệ này còn có thể đến từ những người khác họ nhưng trong cùng một dòng tộc. Thậm chí là khác dân tộc.

Lễ kết nghĩa của người Ê đê thường được xây dựng theo quan hệ cha mẹ – con cái hoặc anh – em, chị – em với nhau. Đặc biệt, đối với nam giới, sau khi đã lấy vợ và theo về nhà vợ ở một bản khác, một làng khác sẽ thường kết nghĩa với một chị em gái trong gia đình nào đó.

Phong tục tập quán của người Ê đê

Sau khi lễ kết nghĩa được hoàn tất, người được nhận kết nghĩa sẽ chính thức trở thành thành viên trong gia đình và dòng họ nhận kết nghĩa. Như vậy, người này sẽ được hưởng các quyền lợi về vật chất cũng như tinh thần như một người con trong dòng họ. Ngược lại, họ cũng có trách nhiệm như một người con đối với gia đình của mình.

Ngày nay, lễ kết nghĩa của người Ê đê đã được đơn giản hóa đi rất nhiều. Tuy nhiên, lễ vật vẫn cần phải đầy đủ. Trong đó bao gồm một con gà trống, một ché rượu cần và hai chiếc vòng đeo tay làm tín vật cho đôi bên. Trong buổi lễ sẽ có dân làng cùng chứng kiến các nghi thức cúng bái. Sau khi buổi lễ kết thúc, dân làng sẽ tham gia múa hát, ăn thịt, cơm nếp và uống rượu cần để chúc phúc và cầu mong sự gắn kết cho mãi mãi cho người nhận kết nghĩa và người được nhận kết nghĩa.

Tục nối dây (Juê nuê) của người Ê đê

Cùng với tục kết nghĩa thì tục nối dây cũng là một trong những nét đặc sắc trong văn hóa của người Ê đê. Theo như quy định của phong tục này, sau khi người chồng trong gia đình không may qua đời thì người vợ được phép cưới người anh, người em hay người cháu trong gia đình, họ hàng của người chồng. Ngoài ra, nếu như người vợ mất sớm thì người chồng cũng phải được cử hành hôn lễ với người vợ mới là em gái, cháu gái của người vợ.

Phong tục tập quán của người Ê đê

Theo truyền thống, đây là quy định bắt buộc của người Ê đê. Chính vì vậy mà đã có những trường hợp tục nối dây cháu lấy thím hay cháu lấy chú đã diễn ra. Tuy nhiên, người chồng, người vợ chỉ được ngủ cùng người bạn đời mới của mình sau khi người vợ, người chồng cũ qua đời 3 tháng.

Sở dĩ có tục nối dây này là bởi theo quan niệm của người Ê đê, họ luôn coi các chị em gái, cháu gái trong họ hàng của mình như ruột thịt, như con đẻ. Chính vì vậy, tục nối dây không chỉ để đảm bảo được tài sản mà hai vợ chồng đã gây dựng trong nhiều năm mà con thể hiện được tình yêu và sự hy sinh của những người vợ, người chồng mới. Họ chấp nhận làm người vợ, người chồng mới nhằm chăm sóc người thân cho những người đã khuất.

Tuy nhiên, đến nay, phong tục này không còn là tục lệ bắt buộc nữa. Lễ nghi chỉ được diễn ra khi cả đôi bên đồng thuận. Nếu không, người vợ hoặc người chồng còn sống có thể cưới người mà mình mong muốn. Khoảng 10 năm trở lại đây, tục lệ này gần như đã biến mất khỏi các buôn làng Ê đê để phù hợp với sự phát triển chung của xã hội.

Chế độ mẫu hệ của người Ê đê

Ê đê là một trong số ít dân tộc của Việt Nam duy trì chế độ mẫu hệ. Theo đó, trong các gia đình Ê đê thì phụ nữ chính là người làm chủ, là trụ cột. Đàn ông sau khi lấy vợ Ê đê phải về sinh sống tại nhà vợ và những đứa con sau khi được sinh ra cũng đều mang họ mẹ. Bên cạnh đó, con gái sẽ là những người được hưởng tài sản thừa kế của cha mẹ mình.

Phong tục tập quán của người Ê đê

Ngoài ra, chế độ mẫu hệ còn được thể hiện ở một số yếu tố khác. Trong đó có thể kể đến như chiếc chuông H’gơr tượng trưng cho người phụ nữ. Sau khi tiếng chuông này vang lên thì những chiếc chuông khác trong giàn chuông mới được phép diễn tấu. Buôn làng cũng thường mang tên người phụ nữ đã tìm bến nước. Những ngôi nhà dài cũng được người phụ nữ trong gia đình quản lý.

Lễ kết nghĩa của người Ê đê

Kết nghĩa là một trong những tục lệ phổ biến nhất của người Ê đê. Đối với người dân nơi đây, tục kết nghĩa sẽ giúp cho tình cảm của các thành viên trong gia đình được thắt chặt hơn. Từ đó, tinh thần, trách nhiệm của các thành viên đối với nhau cũng vì vậy mà trở nên khăng khít. Điều này góp phần tạo nên sự gắn bó và thống nhất trong một dòng họ.

Đối với người Ê đê, mối quan hệ Ê đê đầu tiên được xây dựng trên quan hệ giữa những người cùng huyết thống, là họ hàng với nhau. Ngoài ra, nó còn là sự liên kết của những người mang cùng một họ. Hơn nữa, mối quan hệ này còn có thể đến từ những người khác họ nhưng trong cùng một dòng tộc. Thậm chí là khác dân tộc.

Lễ kết nghĩa của người Ê đê thường được xây dựng theo quan hệ cha mẹ – con cái hoặc anh – em, chị – em với nhau. Đặc biệt, đối với nam giới, sau khi đã lấy vợ và theo về nhà vợ ở một bản khác, một làng khác sẽ thường kết nghĩa với một chị em gái trong gia đình nào đó.

Phong tục tập quán của người Ê đê

Sau khi lễ kết nghĩa được hoàn tất, người được nhận kết nghĩa sẽ chính thức trở thành thành viên trong gia đình và dòng họ nhận kết nghĩa. Như vậy, người này sẽ được hưởng các quyền lợi về vật chất cũng như tinh thần như một người con trong dòng họ. Ngược lại, họ cũng có trách nhiệm như một người con đối với gia đình của mình.

Ngày nay, lễ kết nghĩa của người Ê đê đã được đơn giản hóa đi rất nhiều. Tuy nhiên, lễ vật vẫn cần phải đầy đủ. Trong đó bao gồm một con gà trống, một ché rượu cần và hai chiếc vòng đeo tay làm tín vật cho đôi bên. Trong buổi lễ sẽ có dân làng cùng chứng kiến các nghi thức cúng bái. Sau khi buổi lễ kết thúc, dân làng sẽ tham gia múa hát, ăn thịt, cơm nếp và uống rượu cần để chúc phúc và cầu mong sự gắn kết cho mãi mãi cho người nhận kết nghĩa và người được nhận kết nghĩa.

Tục nối dây (Juê nuê) của người Ê đê

Cùng với tục kết nghĩa thì tục nối dây cũng là một trong những nét đặc sắc trong văn hóa của người Ê đê. Theo như quy định của phong tục này, sau khi người chồng trong gia đình không may qua đời thì người vợ được phép cưới người anh, người em hay người cháu trong gia đình, họ hàng của người chồng. Ngoài ra, nếu như người vợ mất sớm thì người chồng cũng phải được cử hành hôn lễ với người vợ mới là em gái, cháu gái của người vợ.

Phong tục tập quán của người Ê đê

Theo truyền thống, đây là quy định bắt buộc của người Ê đê. Chính vì vậy mà đã có những trường hợp tục nối dây cháu lấy thím hay cháu lấy chú đã diễn ra. Tuy nhiên, người chồng, người vợ chỉ được ngủ cùng người bạn đời mới của mình sau khi người vợ, người chồng cũ qua đời 3 tháng.

Sở dĩ có tục nối dây này là bởi theo quan niệm của người Ê đê, họ luôn coi các chị em gái, cháu gái trong họ hàng của mình như ruột thịt, như con đẻ. Chính vì vậy, tục nối dây không chỉ để đảm bảo được tài sản mà hai vợ chồng đã gây dựng trong nhiều năm mà con thể hiện được tình yêu và sự hy sinh của những người vợ, người chồng mới. Họ chấp nhận làm người vợ, người chồng mới nhằm chăm sóc người thân cho những người đã khuất.

Tuy nhiên, đến nay, phong tục này không còn là tục lệ bắt buộc nữa. Lễ nghi chỉ được diễn ra khi cả đôi bên đồng thuận. Nếu không, người vợ hoặc người chồng còn sống có thể cưới người mà mình mong muốn. Khoảng 10 năm trở lại đây, tục lệ này gần như đã biến mất khỏi các buôn làng Ê đê để phù hợp với sự phát triển chung của xã hội.

Văn hóa tâm linh

Phong tục tập quán của người dân tộc Thái ở Điện Biên

Trong cộng đồng các dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh Điện Biên, Thái là dân tộc có lượng cư dân đông đúc và nền văn hóa mang nhiều sắc thái tiêu biểu.

1258

Trên mảnh đất lịch sử Điện Biên, người Thái là một trong 19 dân tộc anh em cùng sinh sống, chiếm 37,99% trong tổng số trên 55 vạn dân của tỉnh. Người Thái đã tạo dựng cho mình những phong tục tập quán và bản sắc văn hóa riêng, cộng đồng người Thái ở Điện Biên gồm hai nhóm ngành là Thái Đen và Thái Trắng.

Ngôn ngữ của người Thái

Ngôn ngữ của người Thái thuộc hệ ngôn ngữ Thái Ka đai, chữ viết thuộc hệ thống mẫu tự Sanscrit (từ Ấn độ). Dân tộc Thái có bề dày văn hóa được ghi chép qua các bộ sử thi dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, đáng chú ý là thơ ca dân gian với những Xống chụ xôn xao (tiễn dặn người yêu); Khun Lú, Nàng Ủa.

Người Thái nổi tiếng với làn điệu khắp (hát) như khắp báo xao (hát nam nữ), khắp lôồng tôồng (hát ngoài đồng), khắp ca (khi chèo thuyền). Nét đặc sắc của văn hóa dân tộc Thái được biểu đạt trong sinh hoạt hàng ngày ở: Trang phục, nhà sàn, văn hóa văn nghệ, ẩm thực, lao động sản xuất và các nghi thức, lễ hội.

Trang phục của người Thái

Nổi bật trong trang phục của người Thái là bộ váy áo của phụ nữ, gồm áo ngắn (xửa cỏm) được đính hàng khuy bạc hình bướm, ve, nhện… chạy trên đường nẹp ngực áo, bó sát thân.

Phong tục tập quán của người dân tộc Thái ở Điện Biên

– Áo dài: thường được những người phụ nữ Thái mặc trong các dịp hội hè, đây là loại áo thụng, thân thẳng. Phụ nữ Thái trắng mặc áo dài có trang trí hoa văn với nhiều màu sắc, còn nhóm Thái đen lại dùng áo dài nhuộm chàm, không có hoa văn.

– Váy: thường màu chàm, hình ống, kèm theo là thắt lưng giúp cho cạp váy giữ chặt eo bụng. Phụ nữ Thái đen sử dụng khăn (piêu) đội đầu, phụ nữ Thái trắng dùng nón (cup) đội đầu, trang trí thêm cho bộ trang phục còn có các loại vòng cổ, vòng tay, hoa tai, xá tích đeo bên hông. Trang phục của nam giới nói chung là đơn giản, gồm áo, quần, thắt lưng khăn, đội đầu, chủ yếu là màu chàm đen. Áo có kiểu áo ngắn và kiểu áo dài, Áo ngắn may bằng vải nhuộm chàm, xẻ ngực, cổ tròn, khuy áo tết nút vải, Áo dài được may từ vải chàm đen, kiểu xẻ tà, khuy cài lệnh bên sườn, thường được mặc trong các dịp lễ hội.

Nhà ở của người Thái

Người Thái ở nhà sàn, với nhiều dáng vẻ khác nhau, có nhà mái khum hình mai rùa, có nhà mái phẳng, hiên và các gian hồi có lan can, có mở cửa sổ, tường nhà thưng bằng gỗ hoặc tre nứa, mái được lợp bằng tranh, cọ, ngày nay được lợp bằng ngói, tôn….

Kiến trúc của ngôi nhà sàn ngày nay có nhiều thay đổi để phù hợp với việc sử dụng thay thế các loại vật liệu xây dựng tiên tiến, bền vũng hơn, tuy nhiên mặt bằng không gian sử dụng sinh hoạt bên trong ngôi nhà hầu như vẫn giữ nguyên, mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành làm nơi ngủ nghỉ của các thành viên, một nửa dành cho bếp và nơi tiếp khách.

Ẩm thực của người Thái

Trong ẩm thực truyền thống, người Thái nổi tiếng với các món nướng, nộm, lạp, canh, mọ và xôi. Trong các món ăn, người Thái ưa sử dụng các loại gia vị như mắc khén, ớt, tỏi, gừng… để ướp đồ ăn trước khi chế biến theo những cách riêng. Xôi là món ăn truyền thống, xôi được đồ cách thủy bằng chõ gỗ, khi chín được tãi để bay hơi nước và đưa vào ép khẩu để giữ cơm thơm dẻo lâu, cơm lam cũng là cách chế biến độc đáo được người Thái làm để đãi khách trong các dịp lễ tết.

Phong tục tập quán của người dân tộc Thái ở Điện Biên

Với người Thái thì việc sử dụng các nguyên liệu từ tự nhiên luôn được quan tâm ưu tiên, mùa nào thức nấy, tất cả đều trở thành những món ăn đặc trưng và hấp dẫn: măng đắng, măng ngọt, rau dớn, nấm hương… Đặc biệt, trong văn hóa ẩm thực của người Thái không thể thiếu rượu, rượu được người Thái tự ủ men và cất nấu để dùng và đãi khách.

Văn hóa, văn nghệ của người Thái

Người Thái đặc biệt nổi tiếng với các điệu Xòe: Xòe vòng, Xòe khăn, Xòe nón, Xòe quạt, Xòe sạp, Xòe nhạc, Xòe chai, Xòe Hoa bên cạnh đó là các trò chơi dân gian truyền thống như: tung còn, đẩy gậy, kéo co, tó má lẹ, cờ phại… cũng rất nổi tiếng và thu hút. Người Thái thường tổ chức biểu diễn và thi đấu trong những dịp lễ hội vui chung của bản, của mường.

Các nghi thức và lễ hội của người Thái

Với quan niệm đa thần và tục thờ cúng tổ tiên, trong đời người, người Thái có rất nhiều nghi thức thờ cúng, trong chu kỳ một năm cũng có rất nhiều lễ hội quan trọng của gia đình và cộng đồng được người Thái tổ chức rất đầy đủ và trang nghiêm.

Tính theo chu kỳ đời người thì có hai việc lớn là cưới hỏi và ma chay.

Cưới hỏi của người Thái

Theo truyền thống thì lễ cưới chính là một sự kiện đánh dấu sự trưởng thành, tự lập và khẳng định vị trí của một thành viên trong cộng đồng xã hội. Trong đó việc ở rể và thực hiện các nghĩa vụ với bên nhà vợ của chú rể được coi trọng, tuy nhiên, tục lệ này ngày nay đã không còn được duy trì lễ đón dâu (tỏn pạư) được xem là nghi lễ quan trọng nhất của toàn bộ lễ cưới.

Phong tục tập quán của người dân tộc Thái ở Điện Biên

Việc cưới hỏi của một đôi trai gái được diễn ra bình thường theo các 6 bước: bước 1 là chom pạư (tức thăm dò); bước 2 là “pay tham paự” (đi ăn hỏi); bước 3 “khắt mak pú nợ” (cắm lá trầu bé); bước 4 “khắt mak pú luông” (cứm lá trầu lớn); bước 5 “tỏn pạư” (đón dâu); bước 6 “ngái hua, păn chường khá” (tiệc đầu, nhận lễ).

Ma chay của người Thái

Người Thái lúc già yếu, qua đời cũng được mọi người tôn kính, lòng tôn kính đó cũng được thể hiện qua nhiều nghi lễ, đặc biệt là nghi lễ ca hát đưa linh cữu người chết, nhất là người có nhiều công đức, được con cháu đầy đàn tiễn đưa về nơi an nghỉ cuối cùng.

Nghi lễ được tổ chức rất trọng đại trong bầu không khí đau thương nhưng thấm đượm tình cảm nồng ấm. Khi một người trong bản tắt thở, người ta truyền tin cho nhau, mọi người trong bản đều ngừng tay lao động, tập trung đến nhà người quá cố để chia buồn và giúp gia chủ làm tang lễ, thanh niên trai tráng thì lên rừng chặt những cây gỗ tốt nhất về làm áo quan, phụ nữ thì nấu cơm, nấu nước thơm, dệt áo mới để làm lễ tịnh thân, thay áo mới cho người quá cố. Cả bản đến tiễn đưa linh hồn người quá cố cữu cầu mong cho linh hồn người chết sớm về cõi cực lạc của tổ tiên.

Gia chủ còn phải mời một người chuyên hát những bài ca đưa linh với lời hát vừa bị thương, vừa trữ tình ca ngợi công đức của người chết. Và như vậy, các bậc cao niên trong cộng đồng người Thái thanh thản, nhẹ nhàng ra đi trong bầu không khí lễ nghi long trọng, tôn kính và nhớ thương của cả bản làng.

Lễ hội truyền thống của người Thái

Một năm, người Thái có rất nhiều Lễ hội, những tháng đầu năm, sau những ngày ăn tết (kin chiêng) là đến Kin pang; những tháng tiếp theo là các nghi lễ xên bản, xên mường; tháng 7 có tết xíp xí; tháng 8, 9, 10 có mừng cơm mới.

Phong tục đón Tết của người Thái

Xưa kia, người Thái không ăn tết theo âm lịch, tuy nhiên hằng năm người Thái có tổ chức Kin Khẩu mẩu và kin Xíp xí (14/7); tổ chức Xên bản, Xên mường, trong đó có chơi các trò chơi truyền thống ném còn, tó mák lẹ, kéo co… Hết kiêng mường mới đến Xên nhà (cúng tổ tiên ma nhà), mổ lợn nhờ ông mo đến làm. Thời gian cúng một ngày từ sáng đến tối. Từ năm 1954 sau khi giải phóng Điện Biên, đất nước bình yên, người Thái cùng hòa đồng với nhân dân cả nước làm ăn sinh sống xây dựng bản mường, cùng nhau tổ chức ăn tết Âm lịch.

Ngày Tết, người Thái mổ lợn, mổ gà thờ tổ tiên ma nhà, ngoài ra còn có bánh chưng, xôi tím, xôi trắng, cá nướng, mắng đắng đầu mùa, con sóc, con rơi, nhộng ong, tất cả các sản vật đầu mùa trên rừng, trên nương, đi tìm đi kiếm về đủ để dâng lên tổ tiên ma nhà. Việc thờ cúng và chơi tết giống như người kinh.

Trên đây chỉ giới thiệu những nét đặc sắc nhất trong văn hóa truyền thống dân tộc Thái. Những phong tục tập quán đó của người Thái đáng được trân trọng, gìn giữ kế thừa và phát huy không chỉ trong cộng đồng người Thái mà trong tất cả các dân tộc khác trong thời đại ngày nay và trong tương lai.

Nghệ thuật xòe Thái

Ngày 15/01/2019, UBND tỉnh Điện Biên đã ban hành văn bản số 136/UBND-KGVX về việc tán thành, đồng thuận với Quyết định 3692/QĐ-BVHTTDL, ngày 24/10/2016 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc xây dựng hồ sơ “Nghệ thuật xòe Thái” đề nghị UNESCO ghi danh vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Phong tục tập quán của người dân tộc Thái ở Điện Biên

Người Thái vốn nổi tiếng với Nghệ thuật Xòe, tiêu biểu phải kể đến các điệu xòe: Xòe vòng, Xòe khăn, Xòe nón, Xòe quạt, Xòe sạp, Xòe nhạc, Xòe chai. Trong đó Xòe vòng là điệu múa mang ý nghĩa truyền thống và phổ biến nhất của người Thái. Nghệ thuật Xòe là kết tinh của sự sáng tạo bắt nguồn từ cuộc sống lao động sản xuất của người Thái và đã trở thành nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của đồng bào Thái Tây Bắc nói chung và tỉnh Điện Biên nói riêng.

– Xòe vòng (múa vòng): tiếng Thái gọi là Xé cống tức một hình thức múa vòng của người Thái, những người múa nắm tay nhau nên còn có tên gọi là xé khăm khen (múa cầm tay), thường múa quanh đống lửa. Nhạc cụ trong Nghệ thuật Xòe không thể thiếu chiếc trống, ngoài ra còn có chiêng, chũm chọe, tính tẩu.

– Xòe khăn (múa khăn): Đối với phụ nữ Thái Trắng không đội piêu (khăn) thường sử dụng khăn lụa dài để múa còn phụ nữ Thái Đen họ sử dụng chiếc piêu đội đầu có thêu những hoa văn rất đẹp để múa. Những chiếc khăn được khoác lên mình các cô gái xòe để biến những động tác sinh hoạt hàng ngày thành những động tác múa duyên dáng, uyển chuyền. Múa khăn có động tác đứng vung khăn ra đằng trước, vung quá đầu, vung ngang ngực, vung sang bên cạnh và động tác ngồi vung khăn. Ngoài ra, múa khăn còn có động tác vung khăn quàng sau lưng, mỗi nữ cầm hai khăn dài gập đôi; khi thì một tay chống nạnh, một tay vung khăn; khi thì hai tay cùng vung khăn.

– Xòe nón (múa nón): Múa nón Mường Lay (Điện Biên) tiếp thu những động tác múa nón Phong Thổ (Lai Châu) và sáng tạo những động tác riêng, cụ thể:

– Xòe nón còn được sáng tạo kết thành đội hình như bông hoa khoe sắc vô cùng sinh động trên nền nhạc dân gian truyền thống.

– Xòe quạt (múa quạt): có hai kiểu, múa một quạt và múa hai quạt. Múa một quạt thường đi đôi với khăn, người múa cầm quạt xòe ở tay phải, khăn (gập đôi) ở tay trái. Còn múa hai quạt thì cầm quạt xòe ở hai tay, quạt cũng có khi xòe khi gập. Với điệu múa này tạo ra được sự duyên dáng, uyển chuyển, linh hoạt của người biểu diễn.

– Xòe sạp (múa sạp): Ban đầu Xòe sạp chỉ thực hành đối với số ít người cùng tham gia vì chỉ có hai cây tre hoặc hai cái chày để gõ. Sau đó con người dần sáng tạo sử dụng nhiều cây tre dành cho nhiều người ngồi gõ để phục vụ cho nhiều người cùng tham gia múa. Thông thường múa sạp ngày nay chuẩn bị đạo cụ cần thiết phải có hai cây tre to, thẳng và dài làm sạp cái và nhiều cặp sạp con bằng tre nhỏ hay nứa (đường kính khoảng 3 – 4 cm, dài 3 – 4m). Khi múa, đặt hai sạp cái cách nhau vừa đủ để gác hai đầu các cây sạp con, từng cây sạp con đặt song song với khoảng cách đều nhau chừng 30 – 40cm tạo thành dàn sạp. Người múa chia ra một tốp đập sàn và một tốp múa, mỗi tốp có đội hình là những đôi trai gái, càng nhiều cặp tham gia càng khiến đội hình thêm phong phú, sinh động.

– Xòe nhạc (múa nhạc): Người múa đeo chùm nhạc (từ 3 – 5 quả), đeo vào ngón giữa, có thể đeo cả hai tay nhưng thông thường đeo một tay phải. Quả nhạc nằm hướng trên mu bàn tay. Trong múa nhạc sử dụng bước chân Phong Thổ (thuộc tỉnh Lai Châu) và Mường Lay (thuộc tỉnh Điện Biên) và bước vội.

– Xòe chai (múa chai): là điệu múa sử dụng đạo cụ là chiếc chai thường được giữ cân bằng trên đỉnh đầu của người múa kết hợp với những động tác uyển chuyển, khéo léo mà không bị rơi, ý nghĩa của điệu múa này là để mời rượu.

Nghệ thuật Xòe Thái là loại múa đồng diễn, múa đông người, múa tập thể. Đội hình thường gặp là vòng tròn, hai hàng dọc ngang có thêm nhảy đổi chỗ cho nhau.

Trong số những điệu Xòe của Nghệ thuật Xòe Thái, Xòe vòng là điệu Xòe không hạn chế về số người tham gia, động tác đơn giản nhịp nhàng, múa mà không cần có đạo cụ, chỉ là cái nắm tay ấm áp tình người và chân bước theo nhịp điệu xòe. Còn lại những điệu Xòe khăn, Xòe nón, Xòe quạt, Xòe sạp, Xòe nhạc, Xòe chai là những điệu Xòe mang tính chất biểu diễn, bắt buộc phải có nhạc cụ, đạo cụ, giới hạn người tham gia, có đội hình, có biên đạo và thường được sử dụng nhiều trên sân khấu.

Nghệ thuật Xòe Thái được coi là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của đồng bào các dân tộc, được coi đó là sân chơi cho người dân giải trí sau những ngày lao động vất vả, đồng thời Nghệ thuật Xòe được coi là phương tiện giao tiếp để kết nối mọi người xích lại gần nhau. Nghệ thuật Xòe là nét đẹp văn hóa được nhân dân các dân tộc gửi gắm những tâm tư tình cảm và lấy làm hãnh diện, tự hào về văn hóa truyền thống mà cha ông đã gây dựng và trao truyền. Nghệ thuật Xòe Thái đã mang đậm tính dân tộc sâu sắc bởi đã khẳng định được bản sắc riêng có không lẫn với dân tộc nào đồng thời có tính lan tỏa rất lớn bởi đã trở thành sản phẩm nghệ thuật chung của toàn xã hội.

Trên mảnh đất lịch sử Điện Biên, người Thái là một trong 19 dân tộc anh em cùng sinh sống, chiếm 37,99% trong tổng số trên 55 vạn dân của tỉnh. Người Thái đã tạo dựng cho mình những phong tục tập quán và bản sắc văn hóa riêng, cộng đồng người Thái ở Điện Biên gồm hai nhóm ngành là Thái Đen và Thái Trắng.

Ngôn ngữ của người Thái

Ngôn ngữ của người Thái thuộc hệ ngôn ngữ Thái Ka đai, chữ viết thuộc hệ thống mẫu tự Sanscrit (từ Ấn độ). Dân tộc Thái có bề dày văn hóa được ghi chép qua các bộ sử thi dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, đáng chú ý là thơ ca dân gian với những Xống chụ xôn xao (tiễn dặn người yêu); Khun Lú, Nàng Ủa.

Người Thái nổi tiếng với làn điệu khắp (hát) như khắp báo xao (hát nam nữ), khắp lôồng tôồng (hát ngoài đồng), khắp ca (khi chèo thuyền). Nét đặc sắc của văn hóa dân tộc Thái được biểu đạt trong sinh hoạt hàng ngày ở: Trang phục, nhà sàn, văn hóa văn nghệ, ẩm thực, lao động sản xuất và các nghi thức, lễ hội.

Trang phục của người Thái

Nổi bật trong trang phục của người Thái là bộ váy áo của phụ nữ, gồm áo ngắn (xửa cỏm) được đính hàng khuy bạc hình bướm, ve, nhện… chạy trên đường nẹp ngực áo, bó sát thân.

Phong tục tập quán của người dân tộc Thái ở Điện Biên

– Áo dài: thường được những người phụ nữ Thái mặc trong các dịp hội hè, đây là loại áo thụng, thân thẳng. Phụ nữ Thái trắng mặc áo dài có trang trí hoa văn với nhiều màu sắc, còn nhóm Thái đen lại dùng áo dài nhuộm chàm, không có hoa văn.

– Váy: thường màu chàm, hình ống, kèm theo là thắt lưng giúp cho cạp váy giữ chặt eo bụng. Phụ nữ Thái đen sử dụng khăn (piêu) đội đầu, phụ nữ Thái trắng dùng nón (cup) đội đầu, trang trí thêm cho bộ trang phục còn có các loại vòng cổ, vòng tay, hoa tai, xá tích đeo bên hông. Trang phục của nam giới nói chung là đơn giản, gồm áo, quần, thắt lưng khăn, đội đầu, chủ yếu là màu chàm đen. Áo có kiểu áo ngắn và kiểu áo dài, Áo ngắn may bằng vải nhuộm chàm, xẻ ngực, cổ tròn, khuy áo tết nút vải, Áo dài được may từ vải chàm đen, kiểu xẻ tà, khuy cài lệnh bên sườn, thường được mặc trong các dịp lễ hội.

Nhà ở của người Thái

Người Thái ở nhà sàn, với nhiều dáng vẻ khác nhau, có nhà mái khum hình mai rùa, có nhà mái phẳng, hiên và các gian hồi có lan can, có mở cửa sổ, tường nhà thưng bằng gỗ hoặc tre nứa, mái được lợp bằng tranh, cọ, ngày nay được lợp bằng ngói, tôn….

Kiến trúc của ngôi nhà sàn ngày nay có nhiều thay đổi để phù hợp với việc sử dụng thay thế các loại vật liệu xây dựng tiên tiến, bền vũng hơn, tuy nhiên mặt bằng không gian sử dụng sinh hoạt bên trong ngôi nhà hầu như vẫn giữ nguyên, mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành làm nơi ngủ nghỉ của các thành viên, một nửa dành cho bếp và nơi tiếp khách.

Ẩm thực của người Thái

Trong ẩm thực truyền thống, người Thái nổi tiếng với các món nướng, nộm, lạp, canh, mọ và xôi. Trong các món ăn, người Thái ưa sử dụng các loại gia vị như mắc khén, ớt, tỏi, gừng… để ướp đồ ăn trước khi chế biến theo những cách riêng. Xôi là món ăn truyền thống, xôi được đồ cách thủy bằng chõ gỗ, khi chín được tãi để bay hơi nước và đưa vào ép khẩu để giữ cơm thơm dẻo lâu, cơm lam cũng là cách chế biến độc đáo được người Thái làm để đãi khách trong các dịp lễ tết.

Phong tục tập quán của người dân tộc Thái ở Điện Biên

Với người Thái thì việc sử dụng các nguyên liệu từ tự nhiên luôn được quan tâm ưu tiên, mùa nào thức nấy, tất cả đều trở thành những món ăn đặc trưng và hấp dẫn: măng đắng, măng ngọt, rau dớn, nấm hương… Đặc biệt, trong văn hóa ẩm thực của người Thái không thể thiếu rượu, rượu được người Thái tự ủ men và cất nấu để dùng và đãi khách.

Văn hóa, văn nghệ của người Thái

Người Thái đặc biệt nổi tiếng với các điệu Xòe: Xòe vòng, Xòe khăn, Xòe nón, Xòe quạt, Xòe sạp, Xòe nhạc, Xòe chai, Xòe Hoa bên cạnh đó là các trò chơi dân gian truyền thống như: tung còn, đẩy gậy, kéo co, tó má lẹ, cờ phại… cũng rất nổi tiếng và thu hút. Người Thái thường tổ chức biểu diễn và thi đấu trong những dịp lễ hội vui chung của bản, của mường.

Các nghi thức và lễ hội của người Thái

Với quan niệm đa thần và tục thờ cúng tổ tiên, trong đời người, người Thái có rất nhiều nghi thức thờ cúng, trong chu kỳ một năm cũng có rất nhiều lễ hội quan trọng của gia đình và cộng đồng được người Thái tổ chức rất đầy đủ và trang nghiêm.

Tính theo chu kỳ đời người thì có hai việc lớn là cưới hỏi và ma chay.

Cưới hỏi của người Thái

Theo truyền thống thì lễ cưới chính là một sự kiện đánh dấu sự trưởng thành, tự lập và khẳng định vị trí của một thành viên trong cộng đồng xã hội. Trong đó việc ở rể và thực hiện các nghĩa vụ với bên nhà vợ của chú rể được coi trọng, tuy nhiên, tục lệ này ngày nay đã không còn được duy trì lễ đón dâu (tỏn pạư) được xem là nghi lễ quan trọng nhất của toàn bộ lễ cưới.

Phong tục tập quán của người dân tộc Thái ở Điện Biên

Việc cưới hỏi của một đôi trai gái được diễn ra bình thường theo các 6 bước: bước 1 là chom pạư (tức thăm dò); bước 2 là “pay tham paự” (đi ăn hỏi); bước 3 “khắt mak pú nợ” (cắm lá trầu bé); bước 4 “khắt mak pú luông” (cứm lá trầu lớn); bước 5 “tỏn pạư” (đón dâu); bước 6 “ngái hua, păn chường khá” (tiệc đầu, nhận lễ).

Ma chay của người Thái

Người Thái lúc già yếu, qua đời cũng được mọi người tôn kính, lòng tôn kính đó cũng được thể hiện qua nhiều nghi lễ, đặc biệt là nghi lễ ca hát đưa linh cữu người chết, nhất là người có nhiều công đức, được con cháu đầy đàn tiễn đưa về nơi an nghỉ cuối cùng.

Nghi lễ được tổ chức rất trọng đại trong bầu không khí đau thương nhưng thấm đượm tình cảm nồng ấm. Khi một người trong bản tắt thở, người ta truyền tin cho nhau, mọi người trong bản đều ngừng tay lao động, tập trung đến nhà người quá cố để chia buồn và giúp gia chủ làm tang lễ, thanh niên trai tráng thì lên rừng chặt những cây gỗ tốt nhất về làm áo quan, phụ nữ thì nấu cơm, nấu nước thơm, dệt áo mới để làm lễ tịnh thân, thay áo mới cho người quá cố. Cả bản đến tiễn đưa linh hồn người quá cố cữu cầu mong cho linh hồn người chết sớm về cõi cực lạc của tổ tiên.

Gia chủ còn phải mời một người chuyên hát những bài ca đưa linh với lời hát vừa bị thương, vừa trữ tình ca ngợi công đức của người chết. Và như vậy, các bậc cao niên trong cộng đồng người Thái thanh thản, nhẹ nhàng ra đi trong bầu không khí lễ nghi long trọng, tôn kính và nhớ thương của cả bản làng.

Lễ hội truyền thống của người Thái

Một năm, người Thái có rất nhiều Lễ hội, những tháng đầu năm, sau những ngày ăn tết (kin chiêng) là đến Kin pang; những tháng tiếp theo là các nghi lễ xên bản, xên mường; tháng 7 có tết xíp xí; tháng 8, 9, 10 có mừng cơm mới.

Phong tục đón Tết của người Thái

Xưa kia, người Thái không ăn tết theo âm lịch, tuy nhiên hằng năm người Thái có tổ chức Kin Khẩu mẩu và kin Xíp xí (14/7); tổ chức Xên bản, Xên mường, trong đó có chơi các trò chơi truyền thống ném còn, tó mák lẹ, kéo co… Hết kiêng mường mới đến Xên nhà (cúng tổ tiên ma nhà), mổ lợn nhờ ông mo đến làm. Thời gian cúng một ngày từ sáng đến tối. Từ năm 1954 sau khi giải phóng Điện Biên, đất nước bình yên, người Thái cùng hòa đồng với nhân dân cả nước làm ăn sinh sống xây dựng bản mường, cùng nhau tổ chức ăn tết Âm lịch.

Ngày Tết, người Thái mổ lợn, mổ gà thờ tổ tiên ma nhà, ngoài ra còn có bánh chưng, xôi tím, xôi trắng, cá nướng, mắng đắng đầu mùa, con sóc, con rơi, nhộng ong, tất cả các sản vật đầu mùa trên rừng, trên nương, đi tìm đi kiếm về đủ để dâng lên tổ tiên ma nhà. Việc thờ cúng và chơi tết giống như người kinh.

Trên đây chỉ giới thiệu những nét đặc sắc nhất trong văn hóa truyền thống dân tộc Thái. Những phong tục tập quán đó của người Thái đáng được trân trọng, gìn giữ kế thừa và phát huy không chỉ trong cộng đồng người Thái mà trong tất cả các dân tộc khác trong thời đại ngày nay và trong tương lai.

Nghệ thuật xòe Thái

Ngày 15/01/2019, UBND tỉnh Điện Biên đã ban hành văn bản số 136/UBND-KGVX về việc tán thành, đồng thuận với Quyết định 3692/QĐ-BVHTTDL, ngày 24/10/2016 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc xây dựng hồ sơ “Nghệ thuật xòe Thái” đề nghị UNESCO ghi danh vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Phong tục tập quán của người dân tộc Thái ở Điện Biên

Người Thái vốn nổi tiếng với Nghệ thuật Xòe, tiêu biểu phải kể đến các điệu xòe: Xòe vòng, Xòe khăn, Xòe nón, Xòe quạt, Xòe sạp, Xòe nhạc, Xòe chai. Trong đó Xòe vòng là điệu múa mang ý nghĩa truyền thống và phổ biến nhất của người Thái. Nghệ thuật Xòe là kết tinh của sự sáng tạo bắt nguồn từ cuộc sống lao động sản xuất của người Thái và đã trở thành nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của đồng bào Thái Tây Bắc nói chung và tỉnh Điện Biên nói riêng.

– Xòe vòng (múa vòng): tiếng Thái gọi là Xé cống tức một hình thức múa vòng của người Thái, những người múa nắm tay nhau nên còn có tên gọi là xé khăm khen (múa cầm tay), thường múa quanh đống lửa. Nhạc cụ trong Nghệ thuật Xòe không thể thiếu chiếc trống, ngoài ra còn có chiêng, chũm chọe, tính tẩu.

– Xòe khăn (múa khăn): Đối với phụ nữ Thái Trắng không đội piêu (khăn) thường sử dụng khăn lụa dài để múa còn phụ nữ Thái Đen họ sử dụng chiếc piêu đội đầu có thêu những hoa văn rất đẹp để múa. Những chiếc khăn được khoác lên mình các cô gái xòe để biến những động tác sinh hoạt hàng ngày thành những động tác múa duyên dáng, uyển chuyền. Múa khăn có động tác đứng vung khăn ra đằng trước, vung quá đầu, vung ngang ngực, vung sang bên cạnh và động tác ngồi vung khăn. Ngoài ra, múa khăn còn có động tác vung khăn quàng sau lưng, mỗi nữ cầm hai khăn dài gập đôi; khi thì một tay chống nạnh, một tay vung khăn; khi thì hai tay cùng vung khăn.

– Xòe nón (múa nón): Múa nón Mường Lay (Điện Biên) tiếp thu những động tác múa nón Phong Thổ (Lai Châu) và sáng tạo những động tác riêng, cụ thể:

– Xòe nón còn được sáng tạo kết thành đội hình như bông hoa khoe sắc vô cùng sinh động trên nền nhạc dân gian truyền thống.

– Xòe quạt (múa quạt): có hai kiểu, múa một quạt và múa hai quạt. Múa một quạt thường đi đôi với khăn, người múa cầm quạt xòe ở tay phải, khăn (gập đôi) ở tay trái. Còn múa hai quạt thì cầm quạt xòe ở hai tay, quạt cũng có khi xòe khi gập. Với điệu múa này tạo ra được sự duyên dáng, uyển chuyển, linh hoạt của người biểu diễn.

– Xòe sạp (múa sạp): Ban đầu Xòe sạp chỉ thực hành đối với số ít người cùng tham gia vì chỉ có hai cây tre hoặc hai cái chày để gõ. Sau đó con người dần sáng tạo sử dụng nhiều cây tre dành cho nhiều người ngồi gõ để phục vụ cho nhiều người cùng tham gia múa. Thông thường múa sạp ngày nay chuẩn bị đạo cụ cần thiết phải có hai cây tre to, thẳng và dài làm sạp cái và nhiều cặp sạp con bằng tre nhỏ hay nứa (đường kính khoảng 3 – 4 cm, dài 3 – 4m). Khi múa, đặt hai sạp cái cách nhau vừa đủ để gác hai đầu các cây sạp con, từng cây sạp con đặt song song với khoảng cách đều nhau chừng 30 – 40cm tạo thành dàn sạp. Người múa chia ra một tốp đập sàn và một tốp múa, mỗi tốp có đội hình là những đôi trai gái, càng nhiều cặp tham gia càng khiến đội hình thêm phong phú, sinh động.

– Xòe nhạc (múa nhạc): Người múa đeo chùm nhạc (từ 3 – 5 quả), đeo vào ngón giữa, có thể đeo cả hai tay nhưng thông thường đeo một tay phải. Quả nhạc nằm hướng trên mu bàn tay. Trong múa nhạc sử dụng bước chân Phong Thổ (thuộc tỉnh Lai Châu) và Mường Lay (thuộc tỉnh Điện Biên) và bước vội.

– Xòe chai (múa chai): là điệu múa sử dụng đạo cụ là chiếc chai thường được giữ cân bằng trên đỉnh đầu của người múa kết hợp với những động tác uyển chuyển, khéo léo mà không bị rơi, ý nghĩa của điệu múa này là để mời rượu.

Nghệ thuật Xòe Thái là loại múa đồng diễn, múa đông người, múa tập thể. Đội hình thường gặp là vòng tròn, hai hàng dọc ngang có thêm nhảy đổi chỗ cho nhau.

Trong số những điệu Xòe của Nghệ thuật Xòe Thái, Xòe vòng là điệu Xòe không hạn chế về số người tham gia, động tác đơn giản nhịp nhàng, múa mà không cần có đạo cụ, chỉ là cái nắm tay ấm áp tình người và chân bước theo nhịp điệu xòe. Còn lại những điệu Xòe khăn, Xòe nón, Xòe quạt, Xòe sạp, Xòe nhạc, Xòe chai là những điệu Xòe mang tính chất biểu diễn, bắt buộc phải có nhạc cụ, đạo cụ, giới hạn người tham gia, có đội hình, có biên đạo và thường được sử dụng nhiều trên sân khấu.

Nghệ thuật Xòe Thái được coi là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của đồng bào các dân tộc, được coi đó là sân chơi cho người dân giải trí sau những ngày lao động vất vả, đồng thời Nghệ thuật Xòe được coi là phương tiện giao tiếp để kết nối mọi người xích lại gần nhau. Nghệ thuật Xòe là nét đẹp văn hóa được nhân dân các dân tộc gửi gắm những tâm tư tình cảm và lấy làm hãnh diện, tự hào về văn hóa truyền thống mà cha ông đã gây dựng và trao truyền. Nghệ thuật Xòe Thái đã mang đậm tính dân tộc sâu sắc bởi đã khẳng định được bản sắc riêng có không lẫn với dân tộc nào đồng thời có tính lan tỏa rất lớn bởi đã trở thành sản phẩm nghệ thuật chung của toàn xã hội.

Văn hóa tâm linh

Văn hóa dân tộc Phù Lá ở Điện Biên

Dân tộc Phù Lá tại tỉnh Điện Biên là dân tộc thiểu số ít người sinh sống tập trung chủ yếu ở xã Phình Sáng, huyện Tuần Giáo và xã Mường Đun, huyện Tủa Chùa.

756

Qua nghiên cứu tìm hiểu và tham khảo một số tài liệu được biết dân tộc Phù Lá chia thành 2 nhóm chính là nhóm Lao Va Xơ và nhóm Pu La. Thông qua trang phục truyền thống, ngôn ngữ và cách giao tiếp cho thấy dân tộc Phù Lá tỉnh Điện Biên thuộc nhóm Lao Va Xơ.

Trong đó, về văn hóa truyền thống bao gồm các nghi lễ liên quan đến chu kỳ vòng đời cùng các tập tục như:

Lễ cưới (lảu xi xi)

Thường được tiến hành theo hai bước

– Bước 1: Dạm ngõ (Mì khem na láu):
Khi đôi trai gái đã có tình cảm sâu nặng với nhau, chàng trai sẽ về thông báo với bố mẹ là mong muốn được kết duyên vợ chồng cùng cô gái… Khi bố mẹ chàng trai thấy đồng ý, sẽ nhờ người mai mối (bắt buộc phải là 2 người vì theo quan niệm của người Phù Lá số chẵn là con số may mắn, đặc biệt trong đám cưới mọi thứ đều được xắp xếp theo từng cặp: hai người mai mối; hai người giúp việc; khi sang đón dâu nếu ở xa hoặc gặp thời tiết không thuận lợi cũng phải ở lại nhà gái hai ngày mới được đưa dâu về…) chọn ngày tốt, cùng chàng trai sang thưa chuyện với gia đình nhà gái. Bố mẹ của cô gái đồng ý thì đi tới thỏa thuận về những lễ vật cần chuẩn bị. Sau khi đã thỏa thuận xong, người làm mối xin phép ra về để thông báo cho gia đình nhà trai biết. Lúc này cô gái đã ưng thuận và đồng ý đi cùng chàng trai và ông mối về nhà chàng trai ở. Gia đình nhà trai phải có bữa cơm tiếp đãi và cảm ơn người mai mối. Khi gia đình nhà trai đã biết rõ về những yêu cầu của nhà gái đưa ra trong khả năng phù hợp, gia đình sẽ chuẩn bị lễ vật theo yêu cầu trong 3 ngày và tiến hành Cưới lý.

– Bước 2: Cưới lý (già răm to nạ):

Với người Phù Lá, Cưới lý là thủ tục cuối cùng trong tiến trình hôn nhân của đôi trẻ. Trong thủ tục Cưới lý, gia đình nhà trai sẽ nhờ người mai mối (làm nhiệm vụ thưa chuyện với nhà gái), cùng 02 người bạn trai của chàng trai (có nhiệm vụ làm cơm bên nhà gái), cùng 01 cô gái trong họ của chàng trai đi cùng (có nhiệm vụ giúp đỡ cô dâu). Bên nhà gái cũng nhờ một ông mai đại diện cho gia đình nhà gái để tiếp chuyện nhà trai, của hồi môn của cha mẹ cô gái tặng cho con gái về nhà chồng đều được giao cho ông mai. Ông mai bên nhà gái sẽ chịu trách nhiệm bàn giao của hồi môn cho ông mai bên nhà trai, sau khi về nhà trai ông mai sẽ bàn giao lại những lễ vật cho đôi vợ chồng trẻ…

Văn hóa dân tộc Phù Lá ở Điện Biên

Lễ vật mang sang nhà gái: Gà 2 con; lợn 1 con khoảng 50- 60kg (tùy điều kiện của mỗi gia đình); Tiền nhà trai sang nhà gái trước đây bắt buộc phải bằng bạc trắng theo thỏa thuận của hai bên gia đình, ngày naysử dụng tiền giấy để thay thế; gạo, rượu, muối…

Nhà gái tiếp đón gồm: Bố mẹ cô dâu, cô dâu cùng một số anh em, họ hàng trong gia đình nhà gái (tùy điều kiện mà gia đình nhà gái có thể mời nhiều hoặc ít).

Đối với dân tộc Phù Lá trong lễ cưới xin, thủ tục trao và nhận dâu do hai người mai mối của nhà trai và nhà gái đảm nhiệm. Ngày nay, do điều kiện kinh tế của đồng bào Phù Lá còn gặp nhiều khó khăn nên việc tổ chức cưới xin thường được làm đơn giản, mọi nghi lễ vẫn được tiến hành đầy đủ theo phong tục truyền thống nhưng các lễ vật chỉ mang tính tượng trưng, không còn bắt buộc như trước đây. Sau khi Cưới lý, đôi trai gái chính thức thành vợ chồng, cùng nhau xây dựng cuộc sống gia đình, sinh con đẻ cái, phát triển kinh tế. Một thời gian sau, khi kinh tế gia đình khá giả hơn, đôi vợ chồng có thể tổ chức cưới lại với đầy đủ lễ vật hơn, quy mô lớn hơn, phạm vi khách mời được mở rộng hơn.

Sinh đẻ và nuôi con (e lem tẹ)

Đối với người Phù Lá trong vấn đề sinh đẻ, trước đây chủ yếu là sinh đẻ ở bên nhà chồng. Ngày nay đồng bào Phù Lá cũng có những thay đổi rõ ràng trong vấn đề sinh đẻ, đã biết đưa sản phụ khi trở dạ đẻ đến các trung tâm y tế gần nhất để sinh đẻ, vừa an toàn cho cả mẹ và con.

Nghi thức đặt tên cho trẻ sơ sinh sau 3 ngày được gọi là alem ể mo nu với ý nghĩa đặt tên để thông báo với họ hàng anh em là gia đình đã đón thêm một thành viên mới. Mâm cúng (to re to) để thông báo với tổ tiên với đồ cúng như:

+ Mâm cúng (to re to)

+ Cơm (giáng): 02 bát.

+ Rượu (láu xi): 01-02 lít.

+ Gà (rem me): tùy điều kiện gia đình, nhưng tối thiểu phải có một con gà để cúng tổ tiên…

Cúng bệnh

Trước đây, khi ốm đau nặng từ 2-3 ngày mà không rõ nguyên nhân ốm là do đâu, người Phù Lá thường nhờ thầy cúng đến chữa bệnh bằng hình thức xem bói để biết nguyên nhân vì sao lại ốm với nghi thức như sử dụng hai mảnh tre nhỏ hoặc cặp sừng dê để tung quẻ chuẩn đoán bệnh.

Đồ vật cúng gồm: Gà, lợn, dê, rượu, cơm, gạo… tùy thuộc vào mức độ trầm trọng của người bệnh mà lễ vật có thể nhiều hoặc ít, to hoặc nhỏ.

Ngoài ra còn có một số đồ vật khác như: Hoa tai, vòng cổ, cuộn tóc đỏ, bát gạo, quả trứng gà… là những lễ vật không thể thiếu trong các mâm cúng.

Thời gian cúng: Tùy thuộc vào bệnh nặng hay nhẹ, nghi thức cúng lớn hay cúng nhỏ, thời gian cúng lễ sẽ khác nhau, đối với nghi thức cúng lớn thì thời gian kéo dài nhất là một ngày, một đêm.

Tang ma

Người Phù Lá quan niệm rằng khi trong nhà có người cao tuổi bệnh nặng đang hấp hối, con cháu ngồi túc trực bên cạnh, nếu người chăm sóc người đang hấp hối mà không hợp vía thì người đang hấp hối đó như bị hành hạ, đau đớn và khó lìa trần được và ngược lại nếu hợp vía thì người hấp hối đó sẽ ra đi thanh thản, linh hồn người chết sẽ phù hộ cho người hợp vía đó.

Đối với trường hợp là bậc cha mẹ khi chẳng may qua đời, người con trai cả có trách nhiệm vệ sinh sạch sẽ và thay trang phục mới cho cha hoặc mẹ. Con dâu có trách nhiệm trải chiếu, vải, đệm ở nơi khâm niệm, người Phù Lá sử dụng vải tự dệt trắng của dân tộc Thái phủ lên trên thi hài người quá cố (do không tự dệt được, nên người Phù Lá sử dụng hình thức trao đổi, mua bán để có sản phẩm vải tự dệt của người Thái), trên tấm vải trắng phủ một tấm vải thêu hoa văn truyền thống của người Phù Lá, phủ kín từ trên đầu tới chân người quá cố. Tiếp đến người con trai cả thắp 2 cây nến, một cây nến để phía trên đầu, một cây nến để phía dưới chân và túc trực cho nến không bị tắt (cây nến trên đầu tượng trưng cho mặt trăng, cây nến phía dưới chân tượng trưng cho mặt trời).

Khi đã sắp xếp nơi khâm niệm ổn định gia chủ cử người mổ một con lợn (tùy điều kiện có thể to hoặc nhỏ) để cúng tế, nếu không kịp bắt lợn thì mổ con gà để cúng trước. Đối với công việc làm cơm trong lễ ma chay thì người Phù Lá chọn 2 người phụ nữ khác họ, 2 người chuyên múc nước là chủ sự chính đảm nhiệm cơm nước trong ma chay, những người trong bản cũng cử người giúp…

Để có áo quan cho người chết thì gia đình cử người ngoài họ (có uy tín trong bản) đi lên rừng xin cây để làm áo quan cho người chết, khi lên rừng xin cây, người được cử đi sẽ mang 01 chai rượu, 2 chén nhỏ và dẫn 2 người trong họ đi để lạy xin, khi đến nơi rót rượu ra chén và khấn vài câu.

Nội dung lời khấn xin cây như:

Ơ… me khoặm (đất), me thẻm (trời), xỉm gia mó thở (chặt), xi bẻm ngư ( xẻ gỗ).

Dịch nghĩa:

Ơ…bây giờ trong bản có người ốm đau chết về với tổ tiên, thì chúng tôi lên xin thần núi, thần đất cho chặt cây gỗ về để làm áo quan cho người chết…

Khi khấn xong thì 2 người trong họ đi theo lạy cảm ơn và cử thêm nhiều người để xẻ gỗ giúp, việc xẻ gỗ đã xong mọi người chuyển gỗ đã xẻ đến nơi đào huyệt để đóng thành quan tài (người Phù Lá không đóng quan tài ở nhà).

Theo phong tục Phù Lá, người chết thường được để ở nhà 2-3 ngày, chờ chọn được ngày tốt, giờ tốt mới đem chôn cất. Khi đã chọn được ngày tốt, sáng hôm đó gia đình mổ trâu để cúng cho hồn người chết, để người chết ăn bữa cơm cuối cùng với gia đình. Sau bữa cơm, khoảng đầu giờ chiều tiến hành đưa người chết đi chôn cất (người Phù Lá thường đưa ma vào buổi chiều), nghi thức đưa người chết đi chôn của người Phù Lá khác với các tộc người khác là không phải cho vào áo quan từ nhà đưa đi mà làm giống như chiếc cáng để khiêng người chết ra nghĩa địa cho vào áo quan rồi mới chôn cất.

Những người có trách nhiệm di chuyển người chết ra mộ bắt buộc phải có con trai hoặc cháu trai của gia đình tang chủ (theo quan niệm của người Phù Lá con trai sẽ là người dẫn đường để linh hồn người quá cố đến nơi yên nghỉ cuối cùng). Khi cho người quá cố vào áo quan xong, tiến hành hạ huyệt, những người đến đưa ma nhặt nắm đất thả xuống huyệt cho người quá cố thể hiện sự chia lìa mãi mãi cùng những lời khấn cho người quá cố ra đi thanh thản, những lời cầu nguyện mong linh hồn người quá cố phù hộ cho gia đình và dân bản được an lành. Những người được phân công đào huyệt cho người chết cũng tiến hành lấp đất và đắp mộ cho người chết hoàn thiện. Việc chôn cất đã xong xuôi mọi người ai về nhà đấy để tắm rửa để xua đi những điều không may. Đến bữa tối gia đình tang chủ có làm bữa cơm mời dân bản, các thành viên trong gia đình sẽ lạy tạ cảm ơn sự giúp đỡ của bà con dân bản, 3 ngày sau gia đình tiến hành làm lý gọi hồn người chết về nhập vào bàn thờ tổ tiên.

Lễ tra hạt xuống giống (xảm xéo e mơ chạ)

Thường được làm vào tháng 2-3 và được tổ chức trong phạm vi một gia đình. Lễ được diễn ra tại nương, trong nghi thức cúng thường là cử một người trong gia đình, lễ vật cúng gồm: Ta leo (kha lỵ do va), gậy tra hạt (xám du tìn va),hạt giống (e xu)…

Lễ mừng cơm mới (bở khọ)

Trong các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp của người Phù Lá thì Lễ mừng Cơm mới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất, thường được làm vào dịp thu hoạch bông lúa chín đầu tiên.

Tết (chinh da)

Ngày nay người Phù Lá đón tết âm lịch hàng năm, trong những ngày tết họ cũng tổ chức vui chơi hát múa và thăm hỏi chúc tụng nhau. Tết trong mỗi gia đình sẽ được tổ chức riêng có mổ gà cúng tổ tiên và mời tổ tiên về thọ lộc vào thời điểm giao thừa.

Qua nghiên cứu tìm hiểu và tham khảo một số tài liệu được biết dân tộc Phù Lá chia thành 2 nhóm chính là nhóm Lao Va Xơ và nhóm Pu La. Thông qua trang phục truyền thống, ngôn ngữ và cách giao tiếp cho thấy dân tộc Phù Lá tỉnh Điện Biên thuộc nhóm Lao Va Xơ.

Trong đó, về văn hóa truyền thống bao gồm các nghi lễ liên quan đến chu kỳ vòng đời cùng các tập tục như:

Lễ cưới (lảu xi xi)

Thường được tiến hành theo hai bước

– Bước 1: Dạm ngõ (Mì khem na láu):
Khi đôi trai gái đã có tình cảm sâu nặng với nhau, chàng trai sẽ về thông báo với bố mẹ là mong muốn được kết duyên vợ chồng cùng cô gái… Khi bố mẹ chàng trai thấy đồng ý, sẽ nhờ người mai mối (bắt buộc phải là 2 người vì theo quan niệm của người Phù Lá số chẵn là con số may mắn, đặc biệt trong đám cưới mọi thứ đều được xắp xếp theo từng cặp: hai người mai mối; hai người giúp việc; khi sang đón dâu nếu ở xa hoặc gặp thời tiết không thuận lợi cũng phải ở lại nhà gái hai ngày mới được đưa dâu về…) chọn ngày tốt, cùng chàng trai sang thưa chuyện với gia đình nhà gái. Bố mẹ của cô gái đồng ý thì đi tới thỏa thuận về những lễ vật cần chuẩn bị. Sau khi đã thỏa thuận xong, người làm mối xin phép ra về để thông báo cho gia đình nhà trai biết. Lúc này cô gái đã ưng thuận và đồng ý đi cùng chàng trai và ông mối về nhà chàng trai ở. Gia đình nhà trai phải có bữa cơm tiếp đãi và cảm ơn người mai mối. Khi gia đình nhà trai đã biết rõ về những yêu cầu của nhà gái đưa ra trong khả năng phù hợp, gia đình sẽ chuẩn bị lễ vật theo yêu cầu trong 3 ngày và tiến hành Cưới lý.

– Bước 2: Cưới lý (già răm to nạ):

Với người Phù Lá, Cưới lý là thủ tục cuối cùng trong tiến trình hôn nhân của đôi trẻ. Trong thủ tục Cưới lý, gia đình nhà trai sẽ nhờ người mai mối (làm nhiệm vụ thưa chuyện với nhà gái), cùng 02 người bạn trai của chàng trai (có nhiệm vụ làm cơm bên nhà gái), cùng 01 cô gái trong họ của chàng trai đi cùng (có nhiệm vụ giúp đỡ cô dâu). Bên nhà gái cũng nhờ một ông mai đại diện cho gia đình nhà gái để tiếp chuyện nhà trai, của hồi môn của cha mẹ cô gái tặng cho con gái về nhà chồng đều được giao cho ông mai. Ông mai bên nhà gái sẽ chịu trách nhiệm bàn giao của hồi môn cho ông mai bên nhà trai, sau khi về nhà trai ông mai sẽ bàn giao lại những lễ vật cho đôi vợ chồng trẻ…

Văn hóa dân tộc Phù Lá ở Điện Biên

Lễ vật mang sang nhà gái: Gà 2 con; lợn 1 con khoảng 50- 60kg (tùy điều kiện của mỗi gia đình); Tiền nhà trai sang nhà gái trước đây bắt buộc phải bằng bạc trắng theo thỏa thuận của hai bên gia đình, ngày naysử dụng tiền giấy để thay thế; gạo, rượu, muối…

Nhà gái tiếp đón gồm: Bố mẹ cô dâu, cô dâu cùng một số anh em, họ hàng trong gia đình nhà gái (tùy điều kiện mà gia đình nhà gái có thể mời nhiều hoặc ít).

Đối với dân tộc Phù Lá trong lễ cưới xin, thủ tục trao và nhận dâu do hai người mai mối của nhà trai và nhà gái đảm nhiệm. Ngày nay, do điều kiện kinh tế của đồng bào Phù Lá còn gặp nhiều khó khăn nên việc tổ chức cưới xin thường được làm đơn giản, mọi nghi lễ vẫn được tiến hành đầy đủ theo phong tục truyền thống nhưng các lễ vật chỉ mang tính tượng trưng, không còn bắt buộc như trước đây. Sau khi Cưới lý, đôi trai gái chính thức thành vợ chồng, cùng nhau xây dựng cuộc sống gia đình, sinh con đẻ cái, phát triển kinh tế. Một thời gian sau, khi kinh tế gia đình khá giả hơn, đôi vợ chồng có thể tổ chức cưới lại với đầy đủ lễ vật hơn, quy mô lớn hơn, phạm vi khách mời được mở rộng hơn.

Sinh đẻ và nuôi con (e lem tẹ)

Đối với người Phù Lá trong vấn đề sinh đẻ, trước đây chủ yếu là sinh đẻ ở bên nhà chồng. Ngày nay đồng bào Phù Lá cũng có những thay đổi rõ ràng trong vấn đề sinh đẻ, đã biết đưa sản phụ khi trở dạ đẻ đến các trung tâm y tế gần nhất để sinh đẻ, vừa an toàn cho cả mẹ và con.

Nghi thức đặt tên cho trẻ sơ sinh sau 3 ngày được gọi là alem ể mo nu với ý nghĩa đặt tên để thông báo với họ hàng anh em là gia đình đã đón thêm một thành viên mới. Mâm cúng (to re to) để thông báo với tổ tiên với đồ cúng như:

+ Mâm cúng (to re to)

+ Cơm (giáng): 02 bát.

+ Rượu (láu xi): 01-02 lít.

+ Gà (rem me): tùy điều kiện gia đình, nhưng tối thiểu phải có một con gà để cúng tổ tiên…

Cúng bệnh

Trước đây, khi ốm đau nặng từ 2-3 ngày mà không rõ nguyên nhân ốm là do đâu, người Phù Lá thường nhờ thầy cúng đến chữa bệnh bằng hình thức xem bói để biết nguyên nhân vì sao lại ốm với nghi thức như sử dụng hai mảnh tre nhỏ hoặc cặp sừng dê để tung quẻ chuẩn đoán bệnh.

Đồ vật cúng gồm: Gà, lợn, dê, rượu, cơm, gạo… tùy thuộc vào mức độ trầm trọng của người bệnh mà lễ vật có thể nhiều hoặc ít, to hoặc nhỏ.

Ngoài ra còn có một số đồ vật khác như: Hoa tai, vòng cổ, cuộn tóc đỏ, bát gạo, quả trứng gà… là những lễ vật không thể thiếu trong các mâm cúng.

Thời gian cúng: Tùy thuộc vào bệnh nặng hay nhẹ, nghi thức cúng lớn hay cúng nhỏ, thời gian cúng lễ sẽ khác nhau, đối với nghi thức cúng lớn thì thời gian kéo dài nhất là một ngày, một đêm.

Tang ma

Người Phù Lá quan niệm rằng khi trong nhà có người cao tuổi bệnh nặng đang hấp hối, con cháu ngồi túc trực bên cạnh, nếu người chăm sóc người đang hấp hối mà không hợp vía thì người đang hấp hối đó như bị hành hạ, đau đớn và khó lìa trần được và ngược lại nếu hợp vía thì người hấp hối đó sẽ ra đi thanh thản, linh hồn người chết sẽ phù hộ cho người hợp vía đó.

Đối với trường hợp là bậc cha mẹ khi chẳng may qua đời, người con trai cả có trách nhiệm vệ sinh sạch sẽ và thay trang phục mới cho cha hoặc mẹ. Con dâu có trách nhiệm trải chiếu, vải, đệm ở nơi khâm niệm, người Phù Lá sử dụng vải tự dệt trắng của dân tộc Thái phủ lên trên thi hài người quá cố (do không tự dệt được, nên người Phù Lá sử dụng hình thức trao đổi, mua bán để có sản phẩm vải tự dệt của người Thái), trên tấm vải trắng phủ một tấm vải thêu hoa văn truyền thống của người Phù Lá, phủ kín từ trên đầu tới chân người quá cố. Tiếp đến người con trai cả thắp 2 cây nến, một cây nến để phía trên đầu, một cây nến để phía dưới chân và túc trực cho nến không bị tắt (cây nến trên đầu tượng trưng cho mặt trăng, cây nến phía dưới chân tượng trưng cho mặt trời).

Khi đã sắp xếp nơi khâm niệm ổn định gia chủ cử người mổ một con lợn (tùy điều kiện có thể to hoặc nhỏ) để cúng tế, nếu không kịp bắt lợn thì mổ con gà để cúng trước. Đối với công việc làm cơm trong lễ ma chay thì người Phù Lá chọn 2 người phụ nữ khác họ, 2 người chuyên múc nước là chủ sự chính đảm nhiệm cơm nước trong ma chay, những người trong bản cũng cử người giúp…

Để có áo quan cho người chết thì gia đình cử người ngoài họ (có uy tín trong bản) đi lên rừng xin cây để làm áo quan cho người chết, khi lên rừng xin cây, người được cử đi sẽ mang 01 chai rượu, 2 chén nhỏ và dẫn 2 người trong họ đi để lạy xin, khi đến nơi rót rượu ra chén và khấn vài câu.

Nội dung lời khấn xin cây như:

Ơ… me khoặm (đất), me thẻm (trời), xỉm gia mó thở (chặt), xi bẻm ngư ( xẻ gỗ).

Dịch nghĩa:

Ơ…bây giờ trong bản có người ốm đau chết về với tổ tiên, thì chúng tôi lên xin thần núi, thần đất cho chặt cây gỗ về để làm áo quan cho người chết…

Khi khấn xong thì 2 người trong họ đi theo lạy cảm ơn và cử thêm nhiều người để xẻ gỗ giúp, việc xẻ gỗ đã xong mọi người chuyển gỗ đã xẻ đến nơi đào huyệt để đóng thành quan tài (người Phù Lá không đóng quan tài ở nhà).

Theo phong tục Phù Lá, người chết thường được để ở nhà 2-3 ngày, chờ chọn được ngày tốt, giờ tốt mới đem chôn cất. Khi đã chọn được ngày tốt, sáng hôm đó gia đình mổ trâu để cúng cho hồn người chết, để người chết ăn bữa cơm cuối cùng với gia đình. Sau bữa cơm, khoảng đầu giờ chiều tiến hành đưa người chết đi chôn cất (người Phù Lá thường đưa ma vào buổi chiều), nghi thức đưa người chết đi chôn của người Phù Lá khác với các tộc người khác là không phải cho vào áo quan từ nhà đưa đi mà làm giống như chiếc cáng để khiêng người chết ra nghĩa địa cho vào áo quan rồi mới chôn cất.

Những người có trách nhiệm di chuyển người chết ra mộ bắt buộc phải có con trai hoặc cháu trai của gia đình tang chủ (theo quan niệm của người Phù Lá con trai sẽ là người dẫn đường để linh hồn người quá cố đến nơi yên nghỉ cuối cùng). Khi cho người quá cố vào áo quan xong, tiến hành hạ huyệt, những người đến đưa ma nhặt nắm đất thả xuống huyệt cho người quá cố thể hiện sự chia lìa mãi mãi cùng những lời khấn cho người quá cố ra đi thanh thản, những lời cầu nguyện mong linh hồn người quá cố phù hộ cho gia đình và dân bản được an lành. Những người được phân công đào huyệt cho người chết cũng tiến hành lấp đất và đắp mộ cho người chết hoàn thiện. Việc chôn cất đã xong xuôi mọi người ai về nhà đấy để tắm rửa để xua đi những điều không may. Đến bữa tối gia đình tang chủ có làm bữa cơm mời dân bản, các thành viên trong gia đình sẽ lạy tạ cảm ơn sự giúp đỡ của bà con dân bản, 3 ngày sau gia đình tiến hành làm lý gọi hồn người chết về nhập vào bàn thờ tổ tiên.

Lễ tra hạt xuống giống (xảm xéo e mơ chạ)

Thường được làm vào tháng 2-3 và được tổ chức trong phạm vi một gia đình. Lễ được diễn ra tại nương, trong nghi thức cúng thường là cử một người trong gia đình, lễ vật cúng gồm: Ta leo (kha lỵ do va), gậy tra hạt (xám du tìn va),hạt giống (e xu)…

Lễ mừng cơm mới (bở khọ)

Trong các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp của người Phù Lá thì Lễ mừng Cơm mới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất, thường được làm vào dịp thu hoạch bông lúa chín đầu tiên.

Tết (chinh da)

Ngày nay người Phù Lá đón tết âm lịch hàng năm, trong những ngày tết họ cũng tổ chức vui chơi hát múa và thăm hỏi chúc tụng nhau. Tết trong mỗi gia đình sẽ được tổ chức riêng có mổ gà cúng tổ tiên và mời tổ tiên về thọ lộc vào thời điểm giao thừa.

Văn hóa tâm linh

Người dân tộc Hoa ở Việt Nam

Người dân tộc Hoa sinh sống ở Việt Nam là những người có gốc Trung Quốc định cư ở Việt Nam và đa số là có quốc tịch Việt Nam.

1312

Dân tộc Hoa còn có các tên gọi khác là Khách, Hán, Tàu và có các nhóm dân khác nhau như Quảng Ðông, Quảng Tây, Hải Nam, Triều Châu, Phúc Kiến, Sang Phang, Xìa Phống, Thoòng Nhằn, Minh Hương, Hẹ…

Người dân tộc Hoa ở Việt Nam nói tiếng nào?

Dân tộc Hoa sử dụng tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Hán, ngữ hệ Hán-Tạng. Nếu xếp theo phân loại của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì họ được gọi là dân tộc Hán. Đây là một trong hai dân tộc duy nhất tại Việt Nam có dân số giảm trong vòng 10 năm, từ năm 1999 đến năm 2009 theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam.

Người dân tộc Hoa có mặt ở Việt Nam từ khi nào?

Người Trung Quốc bắt đầu di cư vào Việt Nam kể từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Trong 2 thiên niên kỷ kể từ đó, nhiều làn sóng người Trung Quốc gồm lính, quan, dân… đã đến định cư tại Việt Nam. Nhiều người Hoa kết hôn với người Việt và con cháu họ trở thành người Việt Nam.

Người dân tộc Hoa ở Việt Nam

Nói chung người dân tộc Hoa di cư đến Việt Nam vào những thời điểm khác nhau từ thế kỷ 16 và sau này vào cuối thời Minh, đầu thời Thanh, kéo dài cho đến nửa đầu thế kỷ 20.

Dân số, địa bàn cư trú và ngôn ngữ của dân tộc Hoa tại Việt Nam

Dân tộc Hoa tại Việt Nam sinh sống ở nhiều nơi từ Bắc đến Nam, ở cả nông thôn lẫn thành thị. Theo thống kê điều tra dân số năm 1999, tổng số dân tộc Hoa tại Việt Nam là 862.371 người, chiếm tỷ lệ 1,13% dân số ở Việt Nam. Dân tộc Hoa được xếp hàng thứ tư, trong đó có khoảng 50% người Hoa sinh sống tại vùng Chợ Lớn của Thành phố Hồ Chí Minh. Họ tập trung đông nhất ở các khu thương mại trong Quận 5, Quận 11 với khoảng 45% dân số của mỗi quận; ngoài ra còn có một số người sống ở tại các Quận 6, Quận 8, Quận 10. Người dân tộc Hoa có 5 nhóm ngôn ngữ chính là Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và tiếng Khách Gia (Hakka, đôi khi còn gọi là tiếng Hẹ). Số người Hoa còn lại sinh sống ở các tỉnh khác trên toàn quốc nhưng hầu hết là ở nhiều tỉnh của miền Tây Việt Nam.

Người dân tộc Hoa ở Việt Nam

Năm 2003, dân tộc Hoa ước tính có khoảng 913.250 người. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc Hoa ở Việt Nam có dân số 823.071 người, có mặt tại tất cả 63 tỉnh, thành phố.

Họ cư trú tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh 414.045 người, chiếm tỷ lệ 50,3% tổng số người Hoa tại Việt Nam, tỉnh Đồng Nai 95.162 người, tỉnh Sóc Trăng 64.910 người, tỉnh Kiên Giang 29.850 người, tỉnh Bạc Liêu 20.082 người, tỉnh Bình Dương 18.783 người, tỉnh Bắc Giang 18.539 người…

Như vậy, người Hoa là một trong hai dân tộc duy nhất tại Việt Nam có dân số giảm trong vòng 10 năm, từ năm 1999 đến năm 2009; dân tộc còn lại là người dân tộc Ngái, một cộng đồng nói tiếng Hoa được chính phủ Việt Nam tách ra từ người Hoa vào thập niên 1970.

Các tên gọi của người dân tộc Hoa ở Việt Nam

Người Trung Quốc đã qua lại làm ăn, sinh sống và chung đụng với người Việt đã từ lâu đời. Tùy theo từng thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh tiếp xúc hoặc nguyên nhân di cư mà người Trung Quốc đã tự xưng về tên dân tộc của mình khác nhau cũng như người Việt đã gọi họ theo các tên khác nhau. Thường người Trung quốc tự gọi mình là dân các triều đại mà họ cho rằng văn minh, tự hào hoặc cho rằng nó phổ biến và được người bản xứ biết rõ, hoặc đã biết từ lâu như “người Đường” (Thoòng Dành), “người Thanh”, “người Bắc” (Quốc). Người Hoa còn tự gọi họ theo quê quán như “người Quảng” (Quảng Đông), “người Tiều” (Tiều Châu/Triều Châu), “người Hẹ”, “người Khách”, “người Hải Nam”… Người Việt còn có lệ gọi người Hoa là “người Ngô”. Lệ này bắt nguồn từ lịch sử thời Xuân Thu có “nước Ngô” và “nước Việt”. Điển hình là bản Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi vào thế kỷ 15 sau khi Bình Định Vương Lê Lợi đuổi được giặc nhà Minh.

Từ phổ thông người Việt hay dùng là “người Tàu”; còn từ “chệt” hàm ý miệt thị; từ “các chú” nay không thông dụng nữa và được đọc trại từ chữ “khách trú” vì người Hoa không được nhìn nhận là cư dân mà chỉ là dân ở trú mà thôi. Nếu xếp theo phân loại của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì họ được gọi là dân tộc Hán.

Về đặc điểm kinh tế, tổ chức cộng đồng người dân tộc Hoa ở Việt Nam

Người dân tộc Hoa ở vùng nông thôn chủ yếu sống bằng nghề nông, xem lúa nước là đối tượng canh tác chính. Ở các thành phố, thị xã, thị trấn họ làm nghề dịch vụ, buôn bán… Tiểu thủ công nghiệp khá phát triển như nghề gốm (Quảng Ninh, Sông Bé, Ðồng Nai); làm giấy súc, làm nhang (Thành phố Hồ Chí Minh)… Một bộ phận người dân tộc Hoa cư trú ở ven biển sống chủ yếu bằng nghề làm muối và đánh cá. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người Hoa luôn coi trọng chữ “tín”.

Người dân tộc Hoa ở Việt Nam

Người dân tộc Hoa thường cư trú tập trung thành làng xóm hoặc đường phố, tạo thành khu vực đông đúc và gắn bó với nhau. Trong đó các gia đình cùng dòng họ thường ở quây quần bên nhau. Xã hội phân hoá giai cấp sâu sắc và mang tính phụ quyền cao. Mối quan hệ với những người cùng họ được hết sức coi trọng. Mỗi một dòng họ có một từ đường để thờ cúng. Hàng năm vào một ngày nhất định, những người cùng họ tụ tập tại từ đường để làm lễ giỗ tộc họ. Những hoạt động kinh doanh, sản xuất thường có các hội nghề nghiệp tương ứng. Những hội này đều có một vị tổ và một ngày giỗ tổ trong năm. Gia đình được xây dựng theo chế độ một vợ một chồng khá bền vững và mang tính phụ hệ. Người dân tộc Hoa thường dựng vợ gả chồng cho con trong cùng một nhóm địa phương. Trưởng họ, ông mối, các chức dịch đóng vai trò khá quan trọng trong hôn nhân. Hiện nay, phụ nữ người dân tộc Hoa xây dựng gia đình khá muộn, tuổi cưới trung bình từ 28 đến 30 và có số con ít nhất, trung bình một phụ nữ sinh từ 2 đến 3 con.

Về hôn nhân gia đình, tục lệ ma chay, thờ cúng của người dân tộc Hoa tại Việt Nam

Trong gia đình người Hoa, người chồng hoặc người cha là chủ hộ; chỉ con trai được thừa kế gia tài và con trai cả luôn được phần hơn. Cách đây khoảng 40-50 năm vẫn còn những gia đình lớn có tới 4-5 đời, đông tới vài chục người. Nay họ sống theo từng gia đình nhỏ. Hôn nhân của người dân tộc Hoa do cha mẹ quyết định, nạn tảo hôn thường xảy ra. Khi tìm vợ cho con, người Hoa chú trọng đến sự “môn đăng, hộ đối” giữa hai gia đình và sự tương đồng về hoàn cảnh kinh tế cũng như về địa vị xã hội.

Việc ma chay theo phong tục người Hoa phải trải qua lần lượt các bước như lễ báo tang, lễ phát tang, lễ khâm liệm, lễ mở đường cho hồn người chết, lễ chôn cất, lễ đưa hồn người chết đến cõi “Tây thiên Phật quốc”, lễ đoạn tang…

Trong thờ cúng, nổi bật ở tín ngưỡng dân gian là thờ cúng tổ tiên, gia tộc, dòng họ, thờ cúng các vị thần phù hộ như thần bếp, thổ địa, thần tài… và một số vị thánh, bồ tát như Quan Công, Bà Thiên Hậu, Ông Bổn, Nam Hải Quan Âm…

Hệ thống chùa miếu khá phát triển. Chùa miếu của người dân tộc Hoa thường gắn liền với các hội quán, trường học. Ðó cũng là nơi sinh hoạt văn hoá cộng đồng, và nơi diễn ra các lễ hội.

Văn hóa, phong tục tập quán của người dân tộc Hoa

Người dân tộc Hoa thích hát “sơn ca” (san cưa), gồm các chủ đề khá phong phú như tình yêu trai gái, cuộc sống, quê hương, tinh thần đấu tranh… Ca kịch cũng là một hình thức sinh hoạt nghệ thuật mà đồng bào người dân tộc Hoa ưa chuộng. Nhạc cụ có kèn, sáo, nhị, hồ, trống, thanh la, não bạt, đàn tỳ bà, tam thập lục… Ngày tết thường biểu diễn múa sư tử, múa quyền thuật. Lễ hội cũng là dịp tổ chức chơi đu, đua thuyền, vật, đánh cờ…

Đối với nhà cửa, những người làm nghề nông thường sống thành thôn xóm. Làng thường ở ven chân núi, trong cánh đồng, trải dài trên bờ biển, gần nguồn nước, giao thông thuận tiện. Trong làng, nhà ở bố trí sát nhau theo dòng họ. Ở thành thị họ thường sống tập trung trong các khu phố riêng. Nhà ở cổ truyền của người dân tộc Hoa có những đặc trưng mang dấu ấn của người phương Bắc rất rõ. Kiểu nhà “hình cái ấn” là rất điển hình. Nhà thường có năm gian đứng không có chái. Bộ khung với vì kèo đơn giản, tường xây gạch một rất dày. Mái lợp ngói âm dương. Mặt bằng sinh hoạt với nhà chính bao giờ cũng thụt vào một chút tạo thành một cái hiên hẹp. Gian chính giữa là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, đồng thời còn là nơi tiếp khách. Các gian bên đều có tường ngăn cách với nhau. Đến nay nhà của người dân tộc Hoa đã có nhiều thay đổi như có một số kiểu nhà là biến dạng của nhà cổ truyền. Cũng có những kiểu nhà người Hoa tiếp thu của người dân tộc Tày hay người Việt. Nhà cửa thường có 3 loại như nhà 3 gian hai chái, nhà chữ Môn và chữ Khẩu. Nhà thường xây bằng đá, gạch mộc hay trình đất, lợp ngói máng hay lá quế, lá tre, phên lứa… Nổi bật trong nhà ở là các bàn thờ tổ tiên, dòng họ, thờ Phật và các vị thần cùng các câu đối, liễn, các giấy hồng chữ Hán với nội dung cầu phúc, cầu lợi, cầu bình yên

Trong trang phục, cách ăn mặc của đàn ông thường dùng quần áo như đàn ông các dân tộc Nùng, Giáy, Mông, Dao… Đàn bà mặc quần, áo 5 thân cài cúc vải ở bên nách phải, dài trùm mông, áo cộc tay cũng 5 thân. Các thầy cúng có y phục riêng khi làm lễ. Nón, mũ, ô là các đồ đội trên đầu thông dụng của người Hoa. Những trang phục gọi là truyền thống của người Hoa dan tộc hiện nay chỉ còn thấy ở một số người có tuổi hay trong các nghi lễ cưới xin, tang ma. Phụ nữ thường mặc áo cổ viền cao, cài khuy một bên, xẻ tà cao hoặc một chiếc áo “sườn xám” may dài, ôm ngang hông, xẻ tà dưới phần đùi. Màu sắc trang phục của các thiếu nữ thường thích màu hồng hoặc màu đỏ, cùng với các sắc màu đậm. Ðàn ông mặc áo màu đen hay xanh đậm, cài khuy vải một bên, vai liền cổ đứng, xẻ tà hoặc kiểu áo tứ thân, xẻ giữa, cổ đứng, vai liền, có túi. Phụ nữ thích dùng đồ trang sức, đặc biệt là vòng tay bằng đồng, vàng, đá, ngọc…; bông tai, dây chuyền… Ðàn ông thích bịt răng vàng và xem như một lối trang sức.

Về ăn uống, lương thực chính của người dân tộc Hoa là gạo nhưng trong bữa ăn thường có các loại như mì xào, hủ tiếu… Ở các gia đình bình dân, buổi sáng điểm tâm bằng cháo trắng với trứng vịt muối, còn những nhà khá giả hơn là hủ tiếu, bánh bao, xíu mại… Người dân tộc Hoa có kỹ thuật nấu ăn giỏi, thích các món ăn xào mỡ với gia vị. Thức uống của người dân tộc Hoa ngoài tác dụng giải khát còn là loại thuốc mát, bồi dưỡng “lục phủ, ngũ tạng”. Các loại trà sâm, hoa cúc… là những thứ thông dụng trong mọi gia đình. Những dịp hội hè, lễ, tết nam giới cũng quen dùng rượu. Thuốc lá được nhiều người hút, kể cả phụ nữ, nhất là những người phụ nữ có tuổi.

Đối với lễ, tết; trong một năm có nhiều ngày lễ tết khác nhau như tết Nguyên đán, Nguyên tiêu, Thanh minh, tết Ðoan ngọ, Trung nguyên, tết Trung thu. Tết Nguyên đán được tổ chức vào những ngày của năm cũ chuyển sang năm mới theo âm lịch và kéo dài tới ngày rằm tháng giêng (tết Nguyên tiêu). Lễ Nguyên tiêu là loại lễ đặc trưng trong các loại lễ tết của người dân tộc Hoa; mọi hoạt động tập trung của tín ngưỡng và văn hoá truyền thống đều được biểu hiện trong dịp này.

Trong học tập, chữ Hán được dạy và học trong các trường phổ thông.

Văn nghệ của người dân tộc Hoa thường có sinh hoạt văn hoá truyền thống với nhiều thể loại như hát, múa, hài kịch… Họ sử dụng nhiều loại nhạc cụ như tiêu, sáo, các đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn nguyệt, chập choã… Hát “sơn ca” (sán cố) là hình thức được nhiều người ưa chuộng, nhất là tầng lớp thanh niên. Tổ chức văn nghệ dân gian truyền thống mang tính nghiệp dư đã có từ lâu là các “nhạc xã”. Hoạt động múa lân, sư tử, rồng… là những loại hình nghệ thuật mang tính quần chúng sâu rộng được trình diễn hàng năm vào những ngày lễ lớn, ngày lễ tết.

Dân tộc Hoa còn có các tên gọi khác là Khách, Hán, Tàu và có các nhóm dân khác nhau như Quảng Ðông, Quảng Tây, Hải Nam, Triều Châu, Phúc Kiến, Sang Phang, Xìa Phống, Thoòng Nhằn, Minh Hương, Hẹ…

Người dân tộc Hoa ở Việt Nam nói tiếng nào?

Dân tộc Hoa sử dụng tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Hán, ngữ hệ Hán-Tạng. Nếu xếp theo phân loại của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì họ được gọi là dân tộc Hán. Đây là một trong hai dân tộc duy nhất tại Việt Nam có dân số giảm trong vòng 10 năm, từ năm 1999 đến năm 2009 theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam.

Người dân tộc Hoa có mặt ở Việt Nam từ khi nào?

Người Trung Quốc bắt đầu di cư vào Việt Nam kể từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Trong 2 thiên niên kỷ kể từ đó, nhiều làn sóng người Trung Quốc gồm lính, quan, dân… đã đến định cư tại Việt Nam. Nhiều người Hoa kết hôn với người Việt và con cháu họ trở thành người Việt Nam.

Người dân tộc Hoa ở Việt Nam

Nói chung người dân tộc Hoa di cư đến Việt Nam vào những thời điểm khác nhau từ thế kỷ 16 và sau này vào cuối thời Minh, đầu thời Thanh, kéo dài cho đến nửa đầu thế kỷ 20.

Dân số, địa bàn cư trú và ngôn ngữ của dân tộc Hoa tại Việt Nam

Dân tộc Hoa tại Việt Nam sinh sống ở nhiều nơi từ Bắc đến Nam, ở cả nông thôn lẫn thành thị. Theo thống kê điều tra dân số năm 1999, tổng số dân tộc Hoa tại Việt Nam là 862.371 người, chiếm tỷ lệ 1,13% dân số ở Việt Nam. Dân tộc Hoa được xếp hàng thứ tư, trong đó có khoảng 50% người Hoa sinh sống tại vùng Chợ Lớn của Thành phố Hồ Chí Minh. Họ tập trung đông nhất ở các khu thương mại trong Quận 5, Quận 11 với khoảng 45% dân số của mỗi quận; ngoài ra còn có một số người sống ở tại các Quận 6, Quận 8, Quận 10. Người dân tộc Hoa có 5 nhóm ngôn ngữ chính là Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và tiếng Khách Gia (Hakka, đôi khi còn gọi là tiếng Hẹ). Số người Hoa còn lại sinh sống ở các tỉnh khác trên toàn quốc nhưng hầu hết là ở nhiều tỉnh của miền Tây Việt Nam.

Người dân tộc Hoa ở Việt Nam

Năm 2003, dân tộc Hoa ước tính có khoảng 913.250 người. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc Hoa ở Việt Nam có dân số 823.071 người, có mặt tại tất cả 63 tỉnh, thành phố.

Họ cư trú tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh 414.045 người, chiếm tỷ lệ 50,3% tổng số người Hoa tại Việt Nam, tỉnh Đồng Nai 95.162 người, tỉnh Sóc Trăng 64.910 người, tỉnh Kiên Giang 29.850 người, tỉnh Bạc Liêu 20.082 người, tỉnh Bình Dương 18.783 người, tỉnh Bắc Giang 18.539 người…

Như vậy, người Hoa là một trong hai dân tộc duy nhất tại Việt Nam có dân số giảm trong vòng 10 năm, từ năm 1999 đến năm 2009; dân tộc còn lại là người dân tộc Ngái, một cộng đồng nói tiếng Hoa được chính phủ Việt Nam tách ra từ người Hoa vào thập niên 1970.

Các tên gọi của người dân tộc Hoa ở Việt Nam

Người Trung Quốc đã qua lại làm ăn, sinh sống và chung đụng với người Việt đã từ lâu đời. Tùy theo từng thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh tiếp xúc hoặc nguyên nhân di cư mà người Trung Quốc đã tự xưng về tên dân tộc của mình khác nhau cũng như người Việt đã gọi họ theo các tên khác nhau. Thường người Trung quốc tự gọi mình là dân các triều đại mà họ cho rằng văn minh, tự hào hoặc cho rằng nó phổ biến và được người bản xứ biết rõ, hoặc đã biết từ lâu như “người Đường” (Thoòng Dành), “người Thanh”, “người Bắc” (Quốc). Người Hoa còn tự gọi họ theo quê quán như “người Quảng” (Quảng Đông), “người Tiều” (Tiều Châu/Triều Châu), “người Hẹ”, “người Khách”, “người Hải Nam”… Người Việt còn có lệ gọi người Hoa là “người Ngô”. Lệ này bắt nguồn từ lịch sử thời Xuân Thu có “nước Ngô” và “nước Việt”. Điển hình là bản Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi vào thế kỷ 15 sau khi Bình Định Vương Lê Lợi đuổi được giặc nhà Minh.

Từ phổ thông người Việt hay dùng là “người Tàu”; còn từ “chệt” hàm ý miệt thị; từ “các chú” nay không thông dụng nữa và được đọc trại từ chữ “khách trú” vì người Hoa không được nhìn nhận là cư dân mà chỉ là dân ở trú mà thôi. Nếu xếp theo phân loại của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì họ được gọi là dân tộc Hán.

Về đặc điểm kinh tế, tổ chức cộng đồng người dân tộc Hoa ở Việt Nam

Người dân tộc Hoa ở vùng nông thôn chủ yếu sống bằng nghề nông, xem lúa nước là đối tượng canh tác chính. Ở các thành phố, thị xã, thị trấn họ làm nghề dịch vụ, buôn bán… Tiểu thủ công nghiệp khá phát triển như nghề gốm (Quảng Ninh, Sông Bé, Ðồng Nai); làm giấy súc, làm nhang (Thành phố Hồ Chí Minh)… Một bộ phận người dân tộc Hoa cư trú ở ven biển sống chủ yếu bằng nghề làm muối và đánh cá. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người Hoa luôn coi trọng chữ “tín”.

Người dân tộc Hoa ở Việt Nam

Người dân tộc Hoa thường cư trú tập trung thành làng xóm hoặc đường phố, tạo thành khu vực đông đúc và gắn bó với nhau. Trong đó các gia đình cùng dòng họ thường ở quây quần bên nhau. Xã hội phân hoá giai cấp sâu sắc và mang tính phụ quyền cao. Mối quan hệ với những người cùng họ được hết sức coi trọng. Mỗi một dòng họ có một từ đường để thờ cúng. Hàng năm vào một ngày nhất định, những người cùng họ tụ tập tại từ đường để làm lễ giỗ tộc họ. Những hoạt động kinh doanh, sản xuất thường có các hội nghề nghiệp tương ứng. Những hội này đều có một vị tổ và một ngày giỗ tổ trong năm. Gia đình được xây dựng theo chế độ một vợ một chồng khá bền vững và mang tính phụ hệ. Người dân tộc Hoa thường dựng vợ gả chồng cho con trong cùng một nhóm địa phương. Trưởng họ, ông mối, các chức dịch đóng vai trò khá quan trọng trong hôn nhân. Hiện nay, phụ nữ người dân tộc Hoa xây dựng gia đình khá muộn, tuổi cưới trung bình từ 28 đến 30 và có số con ít nhất, trung bình một phụ nữ sinh từ 2 đến 3 con.

Về hôn nhân gia đình, tục lệ ma chay, thờ cúng của người dân tộc Hoa tại Việt Nam

Trong gia đình người Hoa, người chồng hoặc người cha là chủ hộ; chỉ con trai được thừa kế gia tài và con trai cả luôn được phần hơn. Cách đây khoảng 40-50 năm vẫn còn những gia đình lớn có tới 4-5 đời, đông tới vài chục người. Nay họ sống theo từng gia đình nhỏ. Hôn nhân của người dân tộc Hoa do cha mẹ quyết định, nạn tảo hôn thường xảy ra. Khi tìm vợ cho con, người Hoa chú trọng đến sự “môn đăng, hộ đối” giữa hai gia đình và sự tương đồng về hoàn cảnh kinh tế cũng như về địa vị xã hội.

Việc ma chay theo phong tục người Hoa phải trải qua lần lượt các bước như lễ báo tang, lễ phát tang, lễ khâm liệm, lễ mở đường cho hồn người chết, lễ chôn cất, lễ đưa hồn người chết đến cõi “Tây thiên Phật quốc”, lễ đoạn tang…

Trong thờ cúng, nổi bật ở tín ngưỡng dân gian là thờ cúng tổ tiên, gia tộc, dòng họ, thờ cúng các vị thần phù hộ như thần bếp, thổ địa, thần tài… và một số vị thánh, bồ tát như Quan Công, Bà Thiên Hậu, Ông Bổn, Nam Hải Quan Âm…

Hệ thống chùa miếu khá phát triển. Chùa miếu của người dân tộc Hoa thường gắn liền với các hội quán, trường học. Ðó cũng là nơi sinh hoạt văn hoá cộng đồng, và nơi diễn ra các lễ hội.

Văn hóa, phong tục tập quán của người dân tộc Hoa

Người dân tộc Hoa thích hát “sơn ca” (san cưa), gồm các chủ đề khá phong phú như tình yêu trai gái, cuộc sống, quê hương, tinh thần đấu tranh… Ca kịch cũng là một hình thức sinh hoạt nghệ thuật mà đồng bào người dân tộc Hoa ưa chuộng. Nhạc cụ có kèn, sáo, nhị, hồ, trống, thanh la, não bạt, đàn tỳ bà, tam thập lục… Ngày tết thường biểu diễn múa sư tử, múa quyền thuật. Lễ hội cũng là dịp tổ chức chơi đu, đua thuyền, vật, đánh cờ…

Đối với nhà cửa, những người làm nghề nông thường sống thành thôn xóm. Làng thường ở ven chân núi, trong cánh đồng, trải dài trên bờ biển, gần nguồn nước, giao thông thuận tiện. Trong làng, nhà ở bố trí sát nhau theo dòng họ. Ở thành thị họ thường sống tập trung trong các khu phố riêng. Nhà ở cổ truyền của người dân tộc Hoa có những đặc trưng mang dấu ấn của người phương Bắc rất rõ. Kiểu nhà “hình cái ấn” là rất điển hình. Nhà thường có năm gian đứng không có chái. Bộ khung với vì kèo đơn giản, tường xây gạch một rất dày. Mái lợp ngói âm dương. Mặt bằng sinh hoạt với nhà chính bao giờ cũng thụt vào một chút tạo thành một cái hiên hẹp. Gian chính giữa là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, đồng thời còn là nơi tiếp khách. Các gian bên đều có tường ngăn cách với nhau. Đến nay nhà của người dân tộc Hoa đã có nhiều thay đổi như có một số kiểu nhà là biến dạng của nhà cổ truyền. Cũng có những kiểu nhà người Hoa tiếp thu của người dân tộc Tày hay người Việt. Nhà cửa thường có 3 loại như nhà 3 gian hai chái, nhà chữ Môn và chữ Khẩu. Nhà thường xây bằng đá, gạch mộc hay trình đất, lợp ngói máng hay lá quế, lá tre, phên lứa… Nổi bật trong nhà ở là các bàn thờ tổ tiên, dòng họ, thờ Phật và các vị thần cùng các câu đối, liễn, các giấy hồng chữ Hán với nội dung cầu phúc, cầu lợi, cầu bình yên

Trong trang phục, cách ăn mặc của đàn ông thường dùng quần áo như đàn ông các dân tộc Nùng, Giáy, Mông, Dao… Đàn bà mặc quần, áo 5 thân cài cúc vải ở bên nách phải, dài trùm mông, áo cộc tay cũng 5 thân. Các thầy cúng có y phục riêng khi làm lễ. Nón, mũ, ô là các đồ đội trên đầu thông dụng của người Hoa. Những trang phục gọi là truyền thống của người Hoa dan tộc hiện nay chỉ còn thấy ở một số người có tuổi hay trong các nghi lễ cưới xin, tang ma. Phụ nữ thường mặc áo cổ viền cao, cài khuy một bên, xẻ tà cao hoặc một chiếc áo “sườn xám” may dài, ôm ngang hông, xẻ tà dưới phần đùi. Màu sắc trang phục của các thiếu nữ thường thích màu hồng hoặc màu đỏ, cùng với các sắc màu đậm. Ðàn ông mặc áo màu đen hay xanh đậm, cài khuy vải một bên, vai liền cổ đứng, xẻ tà hoặc kiểu áo tứ thân, xẻ giữa, cổ đứng, vai liền, có túi. Phụ nữ thích dùng đồ trang sức, đặc biệt là vòng tay bằng đồng, vàng, đá, ngọc…; bông tai, dây chuyền… Ðàn ông thích bịt răng vàng và xem như một lối trang sức.

Về ăn uống, lương thực chính của người dân tộc Hoa là gạo nhưng trong bữa ăn thường có các loại như mì xào, hủ tiếu… Ở các gia đình bình dân, buổi sáng điểm tâm bằng cháo trắng với trứng vịt muối, còn những nhà khá giả hơn là hủ tiếu, bánh bao, xíu mại… Người dân tộc Hoa có kỹ thuật nấu ăn giỏi, thích các món ăn xào mỡ với gia vị. Thức uống của người dân tộc Hoa ngoài tác dụng giải khát còn là loại thuốc mát, bồi dưỡng “lục phủ, ngũ tạng”. Các loại trà sâm, hoa cúc… là những thứ thông dụng trong mọi gia đình. Những dịp hội hè, lễ, tết nam giới cũng quen dùng rượu. Thuốc lá được nhiều người hút, kể cả phụ nữ, nhất là những người phụ nữ có tuổi.

Đối với lễ, tết; trong một năm có nhiều ngày lễ tết khác nhau như tết Nguyên đán, Nguyên tiêu, Thanh minh, tết Ðoan ngọ, Trung nguyên, tết Trung thu. Tết Nguyên đán được tổ chức vào những ngày của năm cũ chuyển sang năm mới theo âm lịch và kéo dài tới ngày rằm tháng giêng (tết Nguyên tiêu). Lễ Nguyên tiêu là loại lễ đặc trưng trong các loại lễ tết của người dân tộc Hoa; mọi hoạt động tập trung của tín ngưỡng và văn hoá truyền thống đều được biểu hiện trong dịp này.

Trong học tập, chữ Hán được dạy và học trong các trường phổ thông.

Văn nghệ của người dân tộc Hoa thường có sinh hoạt văn hoá truyền thống với nhiều thể loại như hát, múa, hài kịch… Họ sử dụng nhiều loại nhạc cụ như tiêu, sáo, các đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn nguyệt, chập choã… Hát “sơn ca” (sán cố) là hình thức được nhiều người ưa chuộng, nhất là tầng lớp thanh niên. Tổ chức văn nghệ dân gian truyền thống mang tính nghiệp dư đã có từ lâu là các “nhạc xã”. Hoạt động múa lân, sư tử, rồng… là những loại hình nghệ thuật mang tính quần chúng sâu rộng được trình diễn hàng năm vào những ngày lễ lớn, ngày lễ tết.

Văn hóa tâm linh

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Mời độc giả cùng Vanhoatamlinh.com nhắc lại tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam, những dân tộc anh em trong bài viết này.

1551

Từ đồng bằng cho đến miền núi, hải đảo 54 dân tộc Việt Nam đều đoàn kết một lòng cùng nhau trải qua các giai đoạn lịch sử hào hùng gây dựng đất nước.

1. Dân tộc Kinh

Dân số dân tộc Kinh: 82.085.984 người – chiếm hơn 85% dân số Việt Nam

Địa phương sinh sống: Dân tộc Kinh là nhóm chiếm đại đa số ở nước Việt Nam. Người Kinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Ngôn ngữ chính sử dụng giao tiếp là Tiếng Việt và họ có phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà.

Nông nghiệp trồng lúa nước được xem là hoạt động sản xuất đặc trưng của dân tộc này. Một số tín ngưỡng đặc trưng của người Kinh như thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu,.. Trong đó người dân có thể lựa chọn theo các tôn giáo khác nhau như đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài, đạo Tin Lành,..

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong gia đình của người Kinh thì người chồng sẽ là trụ cột, người có tiếng nói và sẽ là chủ của gia đình. Con cái sau khi sinh ra sẽ theo họ của ba. Người con trai đầu sẽ có trách nhiệm thờ phụng ba mẹ, ông bà đã khuất và quán xuyến các việc trong gia đình.

Với nền văn hóa nghệ thuật rộng lớn từ văn học, các bộ môn nghệ thuật dân gian, lễ hội,.. đều mang đậm nét đặc trưng riêng. Và ở mỗi khu vực vùng miền người Kinh khác nhau trên nước Việt Nam ta đều sẽ mang những đặc điểm văn hóa có sự khác biệt nhất định. Người dân tộc Kinh đặc biệt có rất nhiều lễ hội được tổ chức quanh năm với rất nhiều nét độc đáo, tạo được dấu ấn riêng như là lễ hội chùa Hương, lễ hội Đền Hùng, lễ hội chùa Bái Đính,…

. “Cơm tẻ, nước chè” được biết như nét ẩm thực ăn uống cơ bản nhất của người dân tộc Kinh. Ở mỗi mâm cơm gia đình thì sẽ thường có các món canh cá, canh rau, sử dụng nhiều loại mắm (mắm cá, mắm tôm,..)

Cũng tùy thuộc theo từng vùng miền sinh sống mà người dân sẽ có những trang phục đặc trưng riêng và cũng có chịu ảnh hưởng của các dân tộc khác. Đặc biệt nhất là áo dài, áo tứ thân, áo bà ba,..

2. Dân tộc Tày

Dân số dân tộc Tày: 1.845.492 người

Địa phương sinh sống: Dân tộc Tày thường sinh sống ở vùng trung du miền núi phía Bắc (nhiều nhất ở Bản Hồ và Thanh Phú)

Ngôn ngữ: Tiếng Tày – Thái (hệ Thái – Ka Ðai). Chữ viết của người dân tộc Tày dựa trên bảng chữ cái La Tinh từ 1960, khá giống chữ viết của người Việt xưa.

Người dân tộc Tày sống bằng các ngành nghề như trồng lúa nước, trồng các loại cây công nghiệp như chè, hồi, thuốc lá. Tín ngưỡng của người dân tộc Tày chính là thờ Đa Thần, thờ cúng tổ tiên. Vì theo quan niệm của người dân tộc Tày thì “Vạn vật hữu linh” nên bất cứu mọi vật đều sẽ có linh hồn riêng. Một số người dân tộc Tày có tục rước chó đá về nhà để nhằm canh giữ và bảo vệ gia đình. Lá bưởi trong quan niệm của người Tày cũng được xem là loại lá có tác dụng xua đuổi vận xui, trừ tà.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Nền văn hóa của người Tày cũng rất phong phú, họ có rất nhiều truyện, thơ ca dân gian được lưu trữ quan nhiều thế hệ. Nổi bật phải kể đến là những làn điệu ca giao gieo duyên của các chàng trai cô gái người Tày – hát Leu thường thấy trong các dịp lễ hội, sinh hoạt văn hóa,.. Mỗi năm đều sẽ có rất nhiều lễ hội lớn mừng mùa màng như là hội Thanh Minh, hội tranh đầu pháo, hội Lồng Tồng,..

Điểm khác biệt của người Tày đó chính là tục lệ kết hôn trong cùng dòng họ. Hai bên sẽ có quyền tìm hiểu nhau nhưng có được phép kết hôn hay không sẽ còn tùy thuộc vào quyết định của gia đình.

Những món ăn đặc trưng của người Tày có thể kể đến như thịt trâu xào măng chua, canh cá lá chua, thịt lợn chua,..

Trang phục dân tộc Tày có vẻ khá đơn giản nhưng đều được thêu dệt với đường nét chi tiết tỉ mỉ mang đến nét đẹp rất giản dị cho người mực. Thường thì người dân tộc Tày sẽ đeo thêm nhiều đồ trang sức bạc như lắc tay, khuyên tai, kiềng, xà tích để làm điểm nhấn.

3. Dân tộc Thái

Dân số dân tộc Thái: 1.820.950 người.

Địa phương sinh sống: Người dân tộc Thái thường sinh sống ở các tỉnh Sơn La, Nghệ An, Lai Châu, Hòa Bình.

Ngôn ngữ: Tiếng Tày – Thái (hệ Thái – Ka Ðai).

Người dân tộc Thái thường sinh sống chủ yếu ở khu vực Tây Bắc Việt Nam với bao gồm người Thái trắng và dân tộc người Thái đen. Đây là một trong số rất ít dân tộc ở nước ta có hệ thống chữ viết riêng với một mối liên hệ với những mẫu từ ngữ hệ Sanscit có nguồn gốc từ miền Nam Trung Quốc.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Những câu chuyện cổ tích, thần thoại, ca dao, thơ,.. đều là những kho tàng văn học quý giá mà người dân tộc Thái đã gìn giữ suốt bao nhiêu thế hệ. Nổi tiếng nhất phải kể đến các tác phẩm Khun Lú Nàng Úa, Xống chụ xon xao. Trong biểu diễn văn hóa văn nghệ thì chúng ta cũng không thể bỏ qua được những điệu múa đặc trưng nổi tiếng của người dân tộc nơi đây với các điệu múa sạp, múa xòe vừa uyển chuyển lại rất lôi cuốn, hấp dẫn. Một số lễ hội nổi tiếng của người dân tộc Thái ở nước ta đó là lễ hội gội đầu, lễ hội hoa ban, lễ hội Kin Pang Then, lễ hội cầu mưa, lễ hội cầu mùa màng,..

Trước kia trong hôn nhân thì chú rể sẽ cần ở rể nhà gái vài năm đầu đến khi có con thì mới được trở về nhà phía chồng để sinh sống tuy nhiên ngày nay tục lệ này đã được bỏ đi. Cách để giúp người ngoài dễ dàng nhận biết xem cô gái người Thái có chồng hay chưa chính là dựa vào búi tóc trên đầu (chỉ có người phụ nữ đã lập gia đình mới để)

Ẩm thực của người Thái nước ta cũng có rất nhiều nét đặc trưng nổi bật với hương vị và cách chế biến rất độc đáo. Như là các món cá nước pỉnh pộp, măng chua, chẩm chéo, món cá hun khói pa giảng,..

4. Dân tộc Mường

Dân số dân tộc Mường: 1.452.059 người

Địa phương sinh sống: Người Mường tập trung đông ở các tỉnh Miền Bắc. Đặc biệt là tỉnh Hòa Bình và một số huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá.

Ngôn ngữ: Việt – Mường (hệ Nam Á)

Cây lúa nước là loại lương thực chính của người dân tộc Mường. Được xem là dân tộc có nét đặc trưng khá tương đồng với người Kinh nhưng người Mường cũng có rất nhiều phong tục riêng cho mình. Điển hình như là thờ Đa Thần, bên cạnh thờ phụng tổ tiên của mỗi gia đình thì còn có thờ tổ tiên của làng xã, thờ thành hoàng, thờ vua, các vị thần rừng thần núi,..

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong văn hóa nghệ thuật dân gian của người dân tộc Mường cũng có nhiều nét đẹp độc đáo như đa dạng thể loại thơ ca, truyện cổ, ví đúm, tục ngữ,.. Cồng, sáo trống, khèn lù, nhị là những nhạc cụ đặc sắc của người dân tộc này.

Một số lễ hội nổi tiếng của người Mường như là lễ hội chùa Hang, lễ hội chùa Kè, lễ hội Khuống mùa, lễ hội đền Bờ,.. Trong các dịp này mọi người sẽ tụ họp để tưởng nhớ công ơn của ông bà tổ tiên, gửi lời biết ơn và cầu mong may mắn, mùa màng bội thu. Sau đó người dân sẽ cùng nhau tham gia nhiều trò chơi thú vị như là ném còn, đánh cù, bắn nỏ,..

Nói đến ẩm thực thì không thể bỏ qua các món măng rừng, rau rừng, vịt cỏ, gạo nếp hay rượu cần của người dân tộc Mường. Nổi bật là những món thịt thui luộc, cơm lam, cá nướng, thịt trâu nấu lá lồm,..

Trong trang phục đặc trưng của người dân tộc Mường rất đa dạng từ áo xẻ ngực có thân ngắn, váy dài có cạp váy được dệt hoa văn độc đáo, có các loại trang sức là chuỗi hạt, dây bạc, vuốt của các loại mãnh thú,..

5. Dân tộc Khmer

Dân số dân tộc Khmer: 1.319.652 người

Dân tộc Khmer nằm trong nhóm 21 dân tộc nói ngôn ngữ Môn Khơ Me. Khu vực sinh sống sẽ nằm rải rác từ Tây Bắc, miền Trung Tây Nguyên cho đến một số nơi ở Nam Bộ.

Văn hóa của người Khmer cũng rất đa dạng với nghề canh tác chính là làm nương rẫy, họ sở hữu nhiều lễ hội và nét văn hóa cực kỳ độc đáo. Một số lễ hội nổi tiếng của người Khmer có thể kể đến như là lễ cúng Trăng, lễ cúng ông bà, ngày Tết Chôl Thnăm Thmây, ngày Vônabat,..

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Là dân tộc có hệ thống ngôn ngữ và chữ viết riêng cho mình kèm theo đó là một kho tằng những câu chuyện cổ, thần thoại, truyền thuyết và nghệ thuật sân khấu truyền thống rất nổi tiếng và lâu đời. Âm nhạc của dân tộc Khmer cũng chịu một phần ảnh hưởng của quốc gia Ấn Độ

Người Khmer hầu hết đều theo đạo Phật với hệ thống linh thần, linh thú mang đậm dấu ấn Bà La Môn. Trong đó tại khu vực Nam Bộ nơi mà người dân tộc Khmer sinh sống đông đảo nhất thì có tầm khoảng 600 ngôi chùa lớn nhỏ sở hữu lối kiến trúc lạ mắt đã được xây dựng cách đây vài thế kỷ trước. Chúng trở thành những di sản đặc sắc của ngời dân tộc Khmer, phải kể đến như: chùa Mẹt, chùa Âng, chùa Dơi, chùa Hang,..

Nói về trang phục thì chúng ta không thể bỏ qua được các bộ váy xàm pốt cho nữ giới hay xà rông chon am của người dân tộc Khmer.

6. Dân tộc Hmong (H’mông)

Dân số dân tộc Hmong: 1.393.547 người.

Địa phương sinh sống: Người H’Mông tập trung đông đảo ở các tỉnh vùng cao như Tuyên Quang, Sơn La, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An. đặc biệt là Lai Châu.

Ngôn ngữ: Mông (Mèo – Dao)

Nơi đầu tiên xuất hiện dân tộc người Hmong sinh sống tại nước ta chính là ở khu vực Mèo Vạc, Đồng Vân, Hà Giang. Đây được nhiều người Hmong lựa chọn và xem giống như là nguồn cội, quê hương của mình. Ngày nay thì người Hmong đã mở rộng khu vực sinh sống ra nhiều tỉnh thành ở phía Bắc nước ta như là Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Thanh Hóa, Nghệ An,..

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong tín ngưỡng thờ cúng của người Hmong thì ngoài thờ cúng tổ tiên mình thì họ còn thờ Đa Thần. Giống như tín ngưỡng của một số dân tộc thiểu số khác vẫn thực hiện. Họ cũng tin tưởng vào những gì liên quan đến chu kỳ sinh sống của đời người

Nét phong tục tập quán đặc sắc của người Hmong có thể kể đến chính là tục bắt vợ với khởi nguồn chính là từ việc tình cảm của cặp đôi trai gái bị gia đình ngăn cấm đã phải hẹn nhau đến một địa điểm hẹn ước để tiến hành bắt vợ. Tục bắt vợ ngày nay vẫn tuân thủ nhiều nghi thức, nguyên tắc và tập tục thời xưa và lưu ý đó là nếu với những tình yêu đơn phương từ chàng trai mà không có sự chấp thuận của phía cô gái thì sẽ ngay lập tức bị hủy bỏ và đền danh dự cho nhà gái, tổ chức ăn uống trong 7 ngày.

Một số lễ hội đặt trưng của người Hmong phải kể đến như là lễ nào sồng, lễ gầu tào, lễ ngô mới, lễ cúng nương, lễ cúng thần rừng,..

Nếu có dịp đến đây thì cũng đừng bỏ qua cơ hội thưởng thức những món ngon của người Hmong như là thắng cố, mèn mén, cơm lam, rượu táo mèo, rượu ngô Bắc Hà,..

7. Dân tộc Nùng

Dân số dân tộc Nùng: 1.083.298 người.

Người Nùng sinh sống chính bằng cách trồng trọt các loại lương thực chính như là ngô, lúa được trồng ở các sườn đồi. Bên cạnh đó họ cũng còn rất nhiều làn nghề thủ công mỹ nghệ liên quan đến đồ gốm, đan lát, rèn, dệt, nghề mộc,..

Đối với người dân tộc Nùng thì dù có là anh chị em họ hàng con em hay con chị thì sẽ đều dựa vào độ tuổi cao thấp để xác định vị trí xưng hô anh chị. Mọi người không hay gọi thẳng tên của người ông, người ba trong nhà mà sẽ gọi theo tên đứa con đầu, cháu đầu của họ.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong kho tàng văn hóa của người Nùng cũng đa dạng và phong phú không kém cạnh các dân tộc anh em khác, trong đó không thể không nhắc đến các làn điệu dân ca đậm đà bản sắc núi rừng. Một lễ hội nổi tiếng của người Nùng thu hút nhiều người quan tâm mỗi năm đó là hội xuống đồng (Lùng tùng). Tại đây người dân sẽ mặc các trang phục truyền thống với áo 5 thân, quần ống rộng dài đến mắt cá chân được nhuộm màu chàm. Với người phụ nữ Nùng sẽ có 1 chiếc tạp dề ở trước bụng. Tùy thuộc vào nhóm dân tộc Nùng khác nhau mà cách đội khăn và họa tiết trang trí khăn sẽ có sự khác biệt đôi chút

8. Dân tộc Dao

Dân số dân tộc Dao: 891.151 người

Dân tộc Dao cũng được chia nhỏ thành từng nhóm khác nhau khá đa dạng. Ví dụ như: Dao Đỏ, Dao Lô Gang, Dao Quần Trắng,.. Mỗi nhóm thì lại sống ở các khu vực khác nhau và có những trang phục, văn hóa rất riêng.

Cùng chung sống trên đất nước Việt Nam cũng góp phần lớn đến công cuộc giúp cho bức tranh bản sắc văn hóa 54 dân tộc anh em trở nên đa dạng, phong phú hơn đó chính là dân tộc Dao. Người Dao thường sinh sống đông ở những tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc. Với nghề nương rẫy, thổ canh làm ruộng là chính, những sản phẩm nông nghiệp người dân tộc Dao trồng trọt thường là lúa, ngô, các loại cây rau như khoai, bầu, bí,.. Ngành nghề trồng bông để dệt vải ở một số bản làng người Dao cũng rất phổ biến. Ngoài ra các nghề rèn, thợ bạc cũng là những điểm mạnh của người Dao.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Họ có một nền văn hóa ngôn ngữ, chữ viết và kho tàng thơ ca, mỹ thuật, dân vũ,.. cực kỳ tiêu biểu. Tín ngưỡng của người Dao chính là Đa thần nguyên thủy, họ tin tưởng rằng trong bất cứ vật gì cũng sẽ đều có 1 phần linh hồn trong đó và nó cũng thể hiện rõ trong những nghi lễ mà họ thực hiện hằng năm. Nổi bật như là lễ Tết Nhảy, lễ Cấp Sắc.

Đặc biệt người Dao có một nền kiến thức y học rất phong phú vì sống trên khu vực núi rừng nên khi ốm đau người dân chủ có thể tự chữa trị thông qua hái lá thuốc mọc tự nhiên trong rừng. Từ đó tích lũy được rất nhiều bài thuốc hay, quý chữa được nhiều bệnh khác nhau như là ngứa, lở loét, đau nhứt xương, đau đường ruột,..

Ta có thể dễ dàng nhận biết những người dân tộc Dao dựa theo bộ trang phục rực rỡ sắc màu, chủ đạo là tông đỏ với áo dài, yếm, váy,.. Tất cả đều được thêu hoa văn chi tiết, cẩn thận.

9. Dân tộc Hoa

Dân số dân tộc Hoa: 749.466 người

Người dân tộc Hoa có nét văn hóa sinh sống trong các gia đình lớn khi một gia đình có thể sẽ từ 4 – 5 đời với đông đúc đến vài chục người cùng sinh sống với nhau. Hiện nay thì các gia đình người Hoa đã dần tách ra sống thành những hộ gia đình nhỏ nhưng những họ hàng vẫn sống rất gần gũi chứ không quá xa cách.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Thường hôn nhân của người Hoa sẽ do gia đình quyết định, họ chú trọng rất nhiều đến sự đồng đều về hoàn cảnh kinh tế cũng như địa vị xã hội trong quá trình chọn lựa gia đình kết thông gia – hay được gọi là “môn đăng hộ đối”

Người dân tộc Hoa cũng có tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên và bên cạnh đó cũng thờ rất nhiều vị thần, Phật khác như là thần bếp, thổ địa, thần tài, quan công, Bà Thiên Hậu, Nam Hải Quan Âm,.. Các chùa miếu thờ cúng cũng là nơi diễn ra nhiều lễ hội, các hoạt động sinh hoạt cộng đồng của người Hoa

Nói đến văn hóa nghệ thuật thì dân tộc Hoa cực kỳ phong phú từ ca hát, múa quyền, múa sư tử, chơi đánh cờ,.. Nổi bật là ca kịch và nhiều loại dụng cụ tạo ra âm thanh như sáo, lồ lô, nhị, não bạt, đàn tỳ bà,..

10. Dân tộc Gia Rai

Dân số dân tộc Gia Rai: 513.930 người

Một dân tộc sinh sống tại vùng đất Tây Nguyên mà chúng ta không thể không nhắc đến chính là Gia Rai. Nhắc đến người Gia Rai thì chúng ta cũng sẽ nghĩ ngay đến những ngôi nhà Rông – nó như biểu tượng của cộng đồng và văn hóa của người dân tộc này.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người dân tộc Gia Rai có rất nhiều lễ hội đặc sắc khác nhau như là lễ cầu an, lễ cầu mưa, lễ cúng nhà Rông mới, lễ bỏ mã,..

Trong trang phục của người nam Gia Rai sẽ đóng khố, mặc áo đen cộc tay hở nách với đường viền trang phục sẽ sử dụng các đường chỉ màu chị dọc 2 sườn. Còn trang phục nữ Gia Rai sẽ là những loại áo cánh ngắn bó sát vào thân, có tay dài và váy chàm có viền hoa văn chạy quanh phần gấu. Ở cạp sẽ có tua chỉ màu.. Trên tất cả trang phục đều có họa tiết hoa văn rất độc đáo

Ngoài nhà Rông thì người Gia Rai còn nổi tiếng bởi rượu cần, đàn T’rưng, đàn K’lông pút, cây nêu,..

11. Dân tộc Ê Đê

Dân số dân tộc Ê Đê: 398.671 người

Người dân tộc Ê Đê sinh sống chủ yếu đông đảo ở những vùng cao nguyên như là Đak Lak, Dak Nông,.. tại đây người dân sẽ sinh sống theo buôn làng. Họ sử dụng ngành nghề chính là canh tác trồng nương rẫy.

Bến nước được biết đến như là bản sắc của người Ê Đê, nó được xem là nhu cầu cơ bản và là nơi mà người dân cần tìm kiếm và có được trước khi quyết định lập buôn sinh sống lâu dài. Người chủ của bến nước sẽ có nhiệm vụ bảo vệ lấy nguồn nước ở đây với tính gia truyền qua nhiều thế hệ, tuy nhiên tất cả đều là nữ thuộc họ mẹ (theo chế độ mẫu hệ).

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Vì tuân theo chế độ mẫu hệ nên hầu như trong bất kỳ lễ hội nào thì người phụ nữ trong gia đình đều sẽ là người được mời uống rượu trước rồi sau đó mới đến nam giới. Còn với chuyện làm rẫy thì người phụ nữ chủ gia đình sẽ có nhiệm vụ đốt rẫy, gieo hạt, chăm sóc và thu hoạch đưa lúa về nhà. Trong hôn nhân thì người chủ động tìm kiếm bạn đời cũng sẽ là nữ giới. Người được thừa kế tài sản trong gia đình từ mẹ, bà của mình sau khi họ qua đời sẽ là đứa con gái út.

Bên cạnh cồng chiêng như một nét đẹp chung cho nhiều dân tộc vùng Tây Nguyên thì người Ê Đê còn có một hình thức văn hóa nghệ thuật rất độc đáo khác là kể chuyện thông qua ngôn ngữ vừa kể vừa hát (Klei khan), đồng thời đó cũng là rất nhiều câu chuyện sử thi đặc sắc đã lưu truyền qua nhiều thời gian, các lớp thế hệ như Dăm San, Dăm Ji, Dăm Tiông, Dăm Trao Dăm Rao, Sing Nhã, Khing Jú,..

12. Dân tộc Ba Na

Dân số dân tộc Ba Na: 286.910 người

Người dân tộc Ba Na thường có thói quen sinh sống gần những khu vực gần với núi rừng thiên nhiên sông suối. Ngoài làm ruộng nước thì người Ba Na còn làm nhiều ngành nghề thủ công như là đan lát, dệt, gốm, rèn,. Trong đó nổi bật nhất chính là dệt thổ cẩm. Tất cả sản phẩm dệt thổ cẩm đều được thực hiện bằng tay với họa tiết tinh tế, có nhiều gam màu tạo ấn tượng như đỏ, đen, trắng,.. Mỗi sản phẩm đều phản ánh quan niệm tâm linh vũ trụ, triết lý âm dương trời đất.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Ở mỗi ngôi nhà người Ba Na đều sẽ có trồng một cây cúng thường nằm trước nhà đối diện với phía cổng chính. Mỗi dịp đến lễ hội, thờ cúng, đám cưới, đám tang,.. trong nhà đều sẽ thực hiện trước các cây cúng này nhằm giao tiếp với tổ tiên, thần linh

Nền văn hóa dân gian của người dân tộc Ba Na cũng rất đặc sắc phải kể đến trường ca, truyện cổ, múa dân gian và nhiều loại nhạc cụ dân tộc độc đáo, thú vị. Người Ba Na cũng có rất nhiều lễ hội đặc sắc phải kể đến như là lễ tạ ơn ba mẹ, lễ đâm trâu, lễ bỏ mả, lễ tạ ơn thần lúa,.. Đây là dịp người dân cảm tạ công ơn đất trời đã giúp cho mùa màng bội thu và cũng còn là dịp người dân tụ họp vui chơi, cùng nhau đánh cồng chiêng, uống rượu cần,..

13. Dân tộc Xơ Đăng

Dân số dân tộc Xơ Đăng: 212.277 người

Người Xơ Đăng sử dụng ngôn ngữ là tiếng Xơ thuộc loại ngôn ngữ Môn – Khơ me. Họ là những người sinh sống lâu năm tại khu vực Trường Sơn, Tây Nguyên và những khu vực lân cận với Quảng Nam, Quảng Ngãi. Người dân Xơ Đăng chủ yếu làm rẫy trồng lúa, ngoài ra còn có trồng trọt một số loại ngô, sắn, chuối, mía, thuốc lá,.. Người Xơ Đăng cũng có tín ngưỡng thờ Đa Thần, họ có rất nhiều nghi thức cúng bái để giao tiếp với các lực lượng siêu nhiên nhằm mục đích cầu bình an, cầu mùa màng và mong tránh khỏi các xui xẻo cho cộng đồng người dân.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Tùy thuộc vào từng khu vực sinh sống mà phong tục người Xơ Đăng từng vùng sẽ nhiều đổi khác. Tuy nhiên họ vẫn duy trì chế độ nhiều thế hệ cùng sinh sống với nhau trong một ngôi nhà sàn dài. Hôn nhận của người Xơ Đăng rất độc đáo, chú rể và cô dâu sẽ thay phiên ăn chung 1 cái đùi gà, ăn chung 1 mâm cơm và đưa rượu cho nhau cùng uống để ngụ ý về sự gắn kết giữa 2 bên. Thông thường trong quá trình kết hôn thì họ sẽ không ở cố định về phía nhà trai hay nhà gái mà sẽ có sự thay đổi luân phiên mấy năm một lần. Đến khi cha mẹ qua đời thì mới cố định.

Người Xơ Đăng gắn liền với rất nhiều làn điệu dân ca, điệu hát và những điệu múa cùng với những loại nhạc cụ khác nhau được sử dụng trong các dịp lễ hội. Kho tàng truyện cổ của người Xơ Đăng cũng rất đa dạng và độc đáo bạn sẽ có dịp nghe các già làng kể chuyện khi được đến khu vực người Xơ Đăng sinh sống.

Với phần trang phục truyền thống có tông màu chủ đạo là đen, nam sẽ đóng khố và cởi trần, chỉ những dịp lễ đặc biệt thì họ mới quấn thêm một tấm vải chéo trên ngực. Còn nữ sẽ có váy, áo cụt tay và một tấm khăn vai được dệt từ những sợi bông có màu sắc đa dạng nhưng vẫn có chủ đạo là đen. Trang phục của người Xơ Đăng khá giống với đông đảo các dân tộc khác sinh sống ở Tây Nguyên nhưng có điểm khác biệt đó chính là ở hoạt tiết hoa văn trên trang phục.

14. Dân tộc Sán Chay

Dân số dân tộc Sán Chay: 201.398 người

Nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống sản xuất của người dân tộc Sán Chay. Họ thường sinh sống tập trung thành làng để tạo tính đoàn kết gắn bó với nhau. Người dân tộc Sán Chay chắc chắn quen thuộc điệu Múa Tắc Xình, một trong những di sản văn hóa cần được bảo tồn. Ngoài ra, còn có lễ hội Cầu Mùa khá độc đáo của người dân tộc Tắc Xình.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Đối với người dân tộc Sán Chay sẽ được chia thành nhiều họ khác nhau và với mỗi họ sẽ có một điểm khác biệt nhất định, họ sẽ có một thần linh thờ cúng nhất định. Điểm độc đáo trong hôn nhân của người Sán Chay đó là tuy là nhà trai sẽ tổ chức đám cưới cho con nhưng sau khi kết hôn thì cô dâu sẽ trở về sinh sống với ba mẹ đẻ và chỉ thỉnh thoảng mới về lại nhà chồng. Đến khi có thai thì lúc này cả hai mới thật sự chuyển về nhà chồng để ở hẳn

Trong văn hóa nghệ thuật dân gian của người Sán Chay cũng có rất nhiều thơ, ca, ngạn ngữ cổ. Nổi bật nhất là sình ca – một hình thức diễn xướng dân gian đặc sắc của người dân tộc Sán Chay. Trong mỗi dịp lễ hội thì người Sán Chay sẽ sử dụng nhiều nhạc cụ như thanh la, chuông, kèn, não bạt,.. đi kèm đó là các điệu múa trống, múa chim gâu, múa đâm cá, múa xúc tép,..

Trang phục của người Sán Chay thông thường khá giống với người dân tộc Tày hoặc là người Kinh. Người phụ nữ Sán Chày trong đời thường sẽ có một chiếc dây đeo bao dùng thay thế cho thắc lưng và đến các dịp lễ tết thì họ sẽ thắt từ 2 – 3 chiếc thắt lưng vải với nhiều màu sắc khác nhau để làm điểm nhấn.

15. Dân tộc Cờ Ho

Dân số dân tộc Cờ Ho: 200.800 người

Người dân tộc Cờ Ho hay còn biết đến là Cơ Ho, K’ho,.. là người dân tộc sinh sống chủ yếu ở khu vực phía Nam Tây Nguyên nước ta. Họ thường sống ở các vùng núi cao, tách biệt nhiều với các dân tộc khác nên gần như vẫn giữ được rất nhiều nét đẹp văn hóa riêng của dân tộc mình. Người Cờ Ho chủ yếu sản xuất nông nghiệp và lâm thổ sản là chính. Là dân tộc cũng có tín ngưỡng Đa Thần khi cũng tin tưởng rất nhiều vào sự tồn tại của những năng lực siêu nhiên từ thần Mặt Trời, thần Núi, thần Mặt Trăng, thần Đất,.. vào những dịp sự kiện quan trọng trong buôn làng thì người dân sẽ tổ chức các lễ cúng bái để nhằm liên hệ với thần linh nhờ giúp đỡ.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong đời sống xã hội thì hiện tại người Cờ Ho vẫn tuân theo chế độ mẫu hệ, người chủ gia đình vẫn là người phụ nữ. Sau khi kết hôn thì người đàn ông sẽ về nhà vợ sinh sống, con cái trong nhà sẽ theo họ của mẹ. Đặc biệt là người Cờ Ho rất cấm kỵ việc kết hôn trong cùng dòng họ với nhau. Hôn nhân của người dân tộc Cờ Ho luôn có sự tôn trọng, ưng thuận của hai bên chứ không có ý ép buộc.

Trước kia trong ẩm thực thì người Cờ Ho chủ yếu nấu trong các ống nứa nhưng sau này đã sử dụng nhiều loại dụng cụ bằng đất nung, đồng,.. Nước uống sẽ được người dân đựng trong những quả bầu khô hay ghè. Thức ăn đều được chế biến để thuận tiện cho hoạt động bốc.

Văn học nghệ thuật dân gian của người Cờ Ho cũng cực kỳ đặc sắc. Họ có rất nhiều thơ ca trữ tình, hơn 400 câu truyện cổ tính, nhiều trường ca, vũ khúc thường dùng cho các dịp lễ hội. Nhạc cụ cũng có nhiều loại như là cồng kiêng, đàn ống tre, kèn ống bầu,.. Người Cờ Ho cũng có 1 dịp Tết lớn kéo dài từ 7 – 10 ngày sau khi mà họ đã thu hoạch mùa màng xong mang ý nghĩa đón lúa mới về nhà. Dịp này sẽ được tổ chức ngoài trời và người dân sẽ thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để tổ chức lễ, chia thịt cho các gia đình khác trong buôn.

16. Dân tộc Sán Dìu

Dân số dân tộc Sán Dìu: 183.004 người

Người Sán Dìu sử dụng ngôn ngữ Sán Dìu thuộc nhóm hệ Hán và hiện ngôn ngữ này vẫn còn được gìn giữ, sử dụng trong giao tiếp sinh hoạt ở các gia đình nhiều thế hệ sinh sống, các thầy thuốc, thầy cúng,.. Tuy là dân tộc ít người có nhiều họ khác nhau nhưng khi người dân tộc Sán Dìu gặp và nhận ra được nhau thì sẽ sử dụng câu chào nhau “San Déo loỏng si” – ý chỉ người Sán Dìu ít ỏi nên cần yêu thương và đùm bọc lẫn nhau.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Một điểm đặc biệt không thể không nhắc đến trong văn hóa đặc trưng của người Sán Dìu chính là ở nền ẩm thực độc đáo mà người dân tộc này sở hữu. Họ chế biến các món ăn khá cầu kỳ và có sử dụng rất nhiều loại gia vị khác nhau như là địa liền, gừng, tỏi,.. Tất cả thức ăn người Sán Dìu sử dụng thì đều phải nấu nóng để vừa ăn vừa thổi chứ không được để nguội lạnh. Họ cũng có rất nhiều loại bánh khác nhau như là bánh chưng gù, bánh chưng hình ống, bánh nhân điền, bánh tro,.. Tất cả đều sử dụng trong các dịp lễ tết, cưới hỏi. Nhưng riêng bánh nhân điền và bánh dày chỉ dùng chủ yếu trong các đám ma

Vào những dịp thông thường thì người nam giới Sán Dìu sẽ mặc quần đùi cộc màu tối hoặc quần dài màu tối có cạp chun, 2 túi. Áo được may theo kiểu bà ba mặc dài ngang đùi có 2 túi. Còn nữ giới sẽ luôn mặc 2 áo theo cặp với cáo trong luôn sáng màu hơn áo ngoài, phía áo ngoài sẽ may kiểu 3 vạt, dài quá gối và có đeo yếm, đội khăn đen hình mỏ quạ

Còn vào những ngày lễ hội thì có thể mặc các trang phục ngày thường nhưng mới hơn, đi guốc mộc và đội khăn gấm hoặc nhung. Trang sức của nữ giới Sán Dìu không nhiều như những dân tộc khác chỉ có khuyên tai, nhẫn bạc, vòng tay bằng bạc và một săn su quả đào đựng trầu.

17. Dân tộc Chăm

Dân số dân tộc Chăm: 178.948 người

Dân tộc Chăm nằm trong danh sách 5 dân tộc nói ngôn ngữ Nam Đào, bao gồm: Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru, Raglai và người Chăm. Họ sống chủ yếu ở Tây Nguyên với nét văn hóa truyền thống nổi bật nhất là mẫu hệ.

Người Chăm sinh sống tập trung chủ yếu ở những khu vực duyên hải miền Trung nước ta. Nổi bật là ở tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận. Người Chăm sử dụng chữ quốc ngữ là kiểu chữ Phạn Ả Rập đã du nhập vào Chiêm Thành từ những năm ở thế kỷ thứ II nhưng đã có một số thay đổi nhất định. Họ sinh sống chủ yếu nhờ những ngành nghề liên quan đến chăn nuôi, làm gốm và dệt.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Những nét phong tục tập quán của người Chăm mang nhiều dấu ấn của Hồi giáo và Bà la môn từ các lễ cúng thần linh, nghi thức cưới xin, người chết thì đem thiêu,.. Họ cũng là dân tộc mang tính mẫu hệ bản địa khi sau khi mất thì sẽ có nghi lễ nhập Kút nhằm đưa xương cốt các người cùng họ mẹ về cùng một nơi tại nghĩa trang quê mẹ.

Người Chăm cổ đã để lại rất nhiều di sản quý giá nổi bật nhất phải kể đến những ngôi đền bằng gạch nung mang phong cách tháp Ấn Độ độc đáo và các tác phẩm điêu khác đẹp tuyệt mỹ. Những phương thức nung cũng như cách xây dựng nên những ngôi đền này vẫn còn là điều bí ẩn. Các vị thần sẽ được người Chăm thờ phụng trong những ngôi đền này. Phải kể đến như là bộ 3 vị thần lớn của Ấn Độ Brahma (thần sáng tạo), Vishnu (thần bảo vệ), Shiva (thần hủy diệt), thần Linga và thần Yoni tượng trưng cho sinh sản,..

Người dân tộc Chăm cũng có rất nhiều nghi lễ, lễ hội đặc sắc như là lễ cúng nhà mới, lễ trưởng thành, lễ nhập Kút, lễ Ramuwan, lễ hội Kate để tưởng nhớ các vị vua và thần Po Nugar, lễ Riji Praung,..

Người dân tộc Chăm có rất nhiều món ăn đặc trưng riêng cho dân tộc mình. Như là món canh bồi được nấu bằng nhiều loại rau băm nhỏ và trộn với gạo đã được giã nhuyễn, món Ga Pội giống như là cà ri nhưng được chế biến thành dạng cơm rang. Món Pài Pa Ghênh của người Chăm là kiểu gạo xay nhuyễn thành thính nấu chung với nhiều loại rau củ, khi chín sẽ cho thêm mắm bò hóc của người Khmer và tạo thành món ăn cùng bún hoặc cơm,.. Hay là các món tung lò mò, bánh tổ chim, bánh gang tay,..

18. Dân tộc Hrê

Dân số dân tộc Hrê: 149.460 người

Người dân tộc Hrê được biết đến với nhiều tên gọi khác như là Chom, Chăm rê, Kre,.. họ sinh sống chủ yếu ở khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Ngôn ngữ người Hrê sử dụng thuộc nhóm ngôn ngữ của Môn – Khmer, khá gần với ngôn ngữ của dân tộc Ba Na và Xơ Đăng. Người Hrê sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, nuôi heo và các loại gia cầm. Họ cũng làm nhiều nghề thủ công đan lát, dệt thổ cẩm và rèn.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người Hrê cũng rất yêu thích văn hóa nghệ thuật khi từ xa xưa họ đã biết sáng tác thơ ca, mê đàn hát và sở hữu rất nhiều loại nhạc cụ độc đáo có thể kể đến như là đàn Brook, sáo ling la, ống tiêu la lía, ching ka la, khèn ra vai,.. 2 làn điệu dân ca quen thuộc và nổi tiếng của người dân tộc Hrê đó là Ka choi và Ka lêu

Vì là dân tộc rất yêu quý, coi trọng cộng đồng dân tộc của mình nên khi có các lễ hội diễn ra thì hầu như mỗi gia đình đều sẽ cử người tham gia góp công sức thực hiện. Điển hình nhất chính là lễ đâm trâu, các lễ cúng bái trong làng.

Trang phục truyền thống của người Hrê đối với nam giới sẽ đóng khố, ở trần hoặc mặc một áo cánh ngắn đến phần thắt lưng. Nữ giới sẽ mặc loại váy 2 tầng, áo 5 thân và trên đầu sẽ có trùm khăn. Tuy là ngày nay nhiều gia đình người dân tộc Hrê đã dần ăn mặc như người dân tộc Kinh. Tuy nhiên phong tục quấn khắn, trùm khăn của họ thì vẫn được gìn giữ.

19. Dân tộc Raglai

Dân số dân tộc Raglai: 146.613 người

Người Raglai hay còn gọi với nhiều tên khác như là Ra Glai, Ra Giây, Rang ngok,.. được biết là một nhánh của người dân tộc Chăm. Họ sinh sống chủ yếu ở khu vực tỉnh Ninh Thuận và Khánh Sơn, Khánh Hòa nước ta. Ngôn ngữ sử dụng của người Raglai là thuộc hệ ngôn ngữ chi Maylay – Polynesia của hệ Nam Đảo.

Người Raglai quan niệm khu vực thung lũng là lối đi của ma quỷ, sống lưng của những đồi núi là nơi mà các vị thần làm đường đi lại, do đó chit có lưng chừng núi mới là nơi mà con người có thể ở. Họ sẽ sinh sống ở những khu đất cao, bằng phẳng, gần các sông ngòi để có được nguồn nước sinh hoạt cũng như dùng cho các hoạt động sản xuất. Người dân tộc Raglai sẽ sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa và ngô, khoai, củ quả. Những ngành nghề làm gốm, đan lát, rèn,.. vẫn có tuy nhiên còn khá thô sơ, chỉ để đảm bảo phục vụ sinh hoạt và sản xuất.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Họ cũng nằm trong số các dân tộc sống theo quan niệm mẫu hệ. Ngoài quyền hạn của người mẹ trong nhà thì tiếng nói của cậu cũng khá quan trọng. Các tục con gái bắt chồng vẫn được giữ lại, khi để mắt đến chàng trai nhà nào thì sẽ nói với cha mẹ để lo lễ cưới chồng. Con cái khi sinh ra sẽ theo họ mẹ và con gái út sẽ là người được thừa hưởng tài sản. Người này cũng có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ khi về già. Tuy nhiên khi lấy vợ là người dân tộc khác thì lúc này gia đình đó sẽ sống theo chế độ phụ hệ.

Trong văn hóa nghệ thuật dân gian người Raglai có rấy nhiều truyện thần thoại, trường ca, truyện cổ tích có tính nghệ thuật cao, mang giá trị lịch sử cũng như tính giáo dục. Cứ sau mỗi vụ thu hoạc thì cả làng sẽ cùng nhau tụ họp để cúng Giàng và ăn mừng lúa mới. Trong các dịp sinh hoạt, lễ lộc thì người Raglai sẽ thường có tổ chức các hình thức hát đối đáp, sử dụng những nhạc cụ dân tộc để góp vui như là đàn đá, đàn salaken, kèn môi, đàn bầu, mã la,..

20. Dân tộc Mnông

Dân số dân tộc Mnông: 127.334 người

Đây được biết là dân tộc đã sinh sống lâu đời tại miền Trung Tây Nguyên Việt Nam. Người Mnông chủ yếu sống bằng nghề trồng nương rẫy với phương pháp đao canh hỏa chủng. Là phương pháp phát quang, đốt và chọc lỗ để tra hạt trồng cây. Lúa được trồng theo phương pháp đao canh thủy nậu. Là hình thức gieo hạt trồng trên đầm lầy và sử dụng trâu cày để nhão đất chứ không cấy mạ.

Bên cạnh những ngành nghề đan lát, rèn nông cụ, làm gốm thì nghề săn bắn – thuần dưỡng voi rừng của người dân tộc Mnông ở khu vực Buôn Đôn cực kỳ nổi tiếng. Tuy nhiên ngày nay số lượng voi săn bắn đã được giảm đi nhiều.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Thường người dân Mnông sẽ sinh sống thành các bon hay uôn và hầu hết các gia đình trong làng đều là những nhà có quan hệ huyết thống với nhau tập trung sinh sống. Người Mnông vẫn sống theo chế độ mẫu hệ với người phụ nữ chủ động trong hôn nhân hơn, sau khi kết hôn sẽ sinh sống ở nhà gái và con cái sinh ra sẽ theo họ mẹ. Tuy nhiên tùy thuộc và một số địa phương thì chế độ này đã dần tan rã.

Điểm đặc biệt trong hôn nhân của người Mnông đó là họ rất coi trọng chế độ 1 vợ 1 chồng, trong luật tục của người dân tộc Mnông thì những người loạn luân hay ngoại tình sẽ bị phạt tội rất nặng.

Vì chưa có hệ thống chữ viết nên chỉ có hệ thống văn chương truyền miệng qua các thế hệ là chủ yếu. Có rất nhiều truyện cổ, sử thi, ca dao tục ngữ truyền miệng được người dân lưu giữ qua khoảng thời gian dài nhiều thế hệ. Họ cũng có một hệ thống nhạc cụ đặc sắc như là kèn bầu, cồng chiêng, kèn môi, đàn độc huyền, sáo dọc,..

21. Dân tộc X’Tiêng

Dân số dân tộc X’Tiêng: 100.752 người

Người dân tộc X’Tiêng đã cứ trú lâu đời ở khu vực tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng nước ta, và hiện nay đã và đang sinh sống xen kẽ với rất nhiều dân tộc khác như là Kinh, Chăm, Mnông, Khmer ở các tỉnh phía Nam. Tùy theo khu vực sinh sống mà người X’Tiêng sẽ có thể làm ruộng nước hoặc làm nương rẫy để sinh sống.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong phong tục hôn nhân thì người X’Tiêng sẽ kết hôn khá sớm, con trai thường tầm từ 19 đến 20 tuổi còn nữ sẽ từ 15 – 17 tuổi. Tùy thuộc từng khu vực người dân tộc X’Tiêng khác nhau mà sẽ có các tập tục sống tại nhà gái hay nhà trai. Tuy nhiên họ kết hôn khác dòng họ.

Người X’Tiêng rất yêu thích âm nhạc và loại nhạc cụ yêu thích nhất của họ chính là bộ chiêng 6 cái, khèn bầu và cồng. Họ sử dụng chiêng để thể hiện tình cảm, giải quyết xích mích giữa các gia đình với nhau. Chiêng ngoại trừ lễ đâm trâu thì không được gõ bên ngoài nhà.

Trang phục truyền thống của người X’Tiêng khá đơn giản khi người nam sẽ đóng khố và nữ giới sẽ mặc váy. Họ để tóc dài đẻ búi ra sau gáy, có đeo hoa tai bằng các đồ trang sức gỗ, ngà voi và cả nam hay nữ đều thích đeo các loại vòng trang sức. Họ còn xăm mình và xăm mặt bằng các hoa văn đơn giản.

22. Dân tộc Bru Vân Kiều

Dân số dân tộc Bru Vân Kiều: 94.598 người

Đây là dân tộc sử dụng ngôn ngữ của người Bru, thuộc ngôn ngữ chi Cơ Tu của ngữ tộc Môn – Khmer. Bru Vân Kiều được biết đến là 1 trong số các dân tộc thiểu số của Việt Nam. Ban đầu người Bru Vân Kiều sinh sống tại vùng trung Lào nhưng sau nhiều biến động của lịch sử nên hiện nay có một số đông sinh sống ở những khu vực miền núi các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, một số đi đến tây bắc sang Thái Lan.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong hôn nhân thì người Bru Vân Kiều sẽ chịu nhiều quyết định vởi người cậu trong nhà. Khi đám cưới người Bru Vân Kiều có tập tục nhà trai sẽ trao lại cho nhà gái 1 thanh kiếm. Sau khi rước dâu về sẽ phải trải qua rất nhiều nghi thức phức tạp khác nhau.

Ngoài kiến trúc nhà sàn nhỏ thường xây dựng dọc theo con suối hay xếp thành vòng tròn để quây quần bên nhau rất độc đáo thì âm nhạc cũng là yếu tố đặc biệt của người Bru Vân Kiều. Họ sở hữu rất nhiều loại nhạc cụ khác nhau như là chiêng núm, trống, thanh la, nhiều loại kèn (kèn ta riềm, kèn amam,..), các loại đàn (đàn pơ kua, đàn achung,..) và những làn điệu dân ca như sim hay chà chấp được biết đến là những nét đẹp văn hóa nghệ thuật nổi tiếng của người dân tộc Bru Vân Kiều

Lễ hội nổi tiếng nhất của người Bru Vân Kiều phải kể đến lễ hội đập trống diễn ra vào ngày 16 tháng giêng âm lịch hàng năm nhằm mục đích mừng trăng mới.

23. Dân tộc Thổ

Dân số dân tộc Thổ: 91.430 người

Đồng bào dân tộc Thổ thuộc nhóm dân tộc Việt – Mường thường cư trú nhiều ở khu vực phía tây Nghệ An. Ngôn ngữ của người Thổ thuộc hệ ngôn ngữ chi Việt trong hệ Nam Á. Tùy theo từng nhóm dân tộc Thổ khác nhau mà sẽ có phần ngôn ngữ, ngữ âm có đôi chút khác biệt.

Người Thổ sẽ sống bằng nghề làm rẫy, trồng lúa, trồng cây lá gai là chính. Trong đó lá gai khi thu hoạch có thể dùng để đan lát thành nhiều loại vật liệu sử dụng như là lưới bắt cá, lưới săn thú, võng, túi đeo.. Trước kia họ có ngành nghề dệt vải nhưng sau do điều kiện canh tác và có giao lưu với nhiều nền văn hóa của các dân tộc khác nên đã ngày càng mai một dần đi.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người dân tộc Thổ có tục “ngủ mái” đó là trong những dịp lễ hội thì nam nữ có thể nằm tâm tình với nhau để từ đó chọn bạn trăm năm làm vợ chồng. Tuy nhiên các hoạt động thiếu đúng đắn sẽ không được cho phép vì luật lệ người Thổ rất nghiêm minh trong vấn đề này. Trước khi kết hôn thì người nhà trai sẽ cần phải đến làm việc cho nhà vợ tương lai để kiểm tra sức khỏe và lễ cưới nếu diễn ra thì phía nhà trai cũng cần bỏ ra rất nhiều tiền của.

Trước kia thì người dân tộc Thổ có rất nhiều ca dao tục ngữ, truyện cổ, đồng dao, điệu hát đặc sắt nhưng song theo thời gian thì chúng đã dần bị mất mát nhiều. Hiện nay vào mỗi dịp lễ hội thì các đôi trai gái người Thổ sẽ cùng nhau tham gia đối hát và uống rượu cần, múa hát dưới tiếng cồng chiêng.

24. Dân tộc Khơ Mú

Dân số dân tộc Khơ Mú: 90.612 người

Người Khơ Mú hay còn biết đến là người Xá Cẩu, Tày Hạy, Tềnh, Mứn Xen,.. Họ sinh sống nhiều tại khu vực các tỉnh Nghệ An, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hóa, Yên Bái,.. Người Khơ Mú sống bằng nghề nương rẫy là chính, trong đó các loại cây trồng phổ biến là lúa, ngô, sắn, khoai,.. Họ cũng có nuôi các gia súc và gia cầm tuy nhiên chỉ để phục vụ những dịp lễ lộc hay tiếp khách.

Họ mà người Khơ Mú sử dụng sẽ thường có liên quan đến tên của các loài thú rừng, chim hay một loại cây nào đó vì họ xem đây như là tổ tiên ban đầu của mình. Và mỗi dòng họ lại có một huyền thoại để kể về lai lịch tổ tiên riêng, rất đặc sắc.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong hôn nhân của người Khơ Mú khá bình đẳng và họ cũng sống rất chung thủy với nhau. Sau khi kết hôn thì chú rể sẽ ở nhà gái 1 năm sau đó mới đưa vợ về nhà mình. Và trong giai đoạn ở nhà vợ nếu sinh con thì con sẽ mang họ mẹ, còn khi đã về nhà chồng thì khi sinh con sẽ mang họ cha.

Tuy người dân tộc Khơ Mú khá nghèo về vật chất nhưng đời sống tinh thần của họ lại rất phong phú và dồi dào. Họ rất tin vào những linh hồn và các loại ma như là ma trời, ma đất, ma mương, ma rừng,.. Người dân sẽ có các nghi lễ để thờ cúng. Và trong dịp Tết thì không như những dân tộc khác người Khơ Mú sẽ nhặt sỏi để dự đoán đầu năm cũng như múc nước về chia cho mọi người trong nhà cùng nhau uống, gọi là tập tục uống nước mới.

25. Dân tộc Cơ Tu

Dân số dân tộc Cơ Tu: 74.173 người

Người Cơ Tu thường sinh sống bằng việc trồng cây lương thực và thu hái lâm thổ sản và chỉ có duy nhất 1 mùa làm rẫy trong năm, ngoài ra sẽ còn có các hoạt động kinh tế khác như dệt, đan lát, đánh bắt cá, săn bắn, trao đổi hàng hóa theo dạng vật đổi vật. Hiện nay khi đã có sự phát triển của du lịch thì một số ngành nghề liên quan đến bán các sản phẩm địa phương và trình diễn múa cồng chiêng trở nên nổi bật hơn.

Trong năm thì người dân tộc Cơ Tu sẽ có rất nhiều lễ hội lớn như là lễ mừng lúa mới, lễ đâm trâu, lễ cúng đất, lễ kết nghĩa.. Họ sẽ sử dụng các loại nhạc cụ để nhảy các điệu múa truyền thống mang tên Tungtung Yaya.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Điểm nổi bật trong trang phục của người Cơ Tu chính là ở các hoa văn trang trí được dệt hạt cườm và nhiều loại khác nhau và đi kèm với đó là các loại trang sức với những chất liệu như là bạc, cườm nhựa, răng nanh, mã não,..

Các tục xăm mình, xăm mặt, cưa răng hay đàn ông phải búi tóc sau gáy của người Cơ Tu đã dần được loại bỏ.

26. Dân tộc Giáy

Dân số dân tộc Giáy: 67.858 người

Dân tộc Giáy chung nhóm với những dân tộc Tày, Thái, Lào, Lự, Bố Y, Sán Chay. Họ đều sống chủ yếu ở các khu vực Tây Bắc nước ta. Văn hóa của nhóm các dân tộc này chính là sống ở nhà sàn, tận dụng địa hình vùng cao thung lũng để trồng ruộng bậc thang.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Nếp sống văn hóa, trang phục của nhóm dân tộc Tày – Thái cũng đa dạng, mỗi dân tộc đều sẽ có phong tục thờ cúng các vị Thần khác nhau nhưng đều quan niệm chung về liên kết vũ trụ – con người – các vị thần thánh.

27. Dân tộc Giẻ Triêng

Dân số dân tộc Giẻ Triêng: 63.332 người

Đồng bào dân tộc Giẻ Triêng là một trong số 6 dân tộc đã sinh sống lâu đời tại vùng đất Kon Tum. Họ sống chủ yếu tại những khu vực núi rừng hiểm trở nên những loại vật dụng dùng để vận chuyển đồ đạc là cõng, gùi, vách, xách, kéo,.. cực kỳ thông dụng. Họ sinh sống bằng nghề trồng trọt trên nương rẫy, trong đó sử dụng các nông cụ như nạo cỏ, cuốc, rìu,.. là chủ yếu chứ không nhiều máy móc. Ngoài ra người dân cũng còn nhiều hoạt động khác như là săn bắt, làm đồ thủ công, rèn,..

Người Giẻ Triêng trong tín ngưỡng vẫn rất tin tưởng vào thần linh nên có rất nhiều nghi lễ độc đáo diễn ra trong năm như là lễ mừng lúa mới, lễ mừng hôn nhân, lễ “cà răng”,.. Người dân tộc Giẻ Triêng ngoài phong tục sử dụng các loại lá, rễ và thân cây rừng để chữa bệnh thì vẫn giữ tập tục thực hiện các nghi lễ để cúng thần mỗi khi gặp các bệnh tật.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong hôn nhân thì quyết định kết hôn của con cái rất được ba mẹ tôn tọng và con gái sẽ là người chủ động trong việc kết hôn. Trước khi lập gia đình thì người nam sẽ phải biết đan lát, biết đánh cồng chiêng, con gái thì phải biết đan chiếu, dệt vải. Khi muốn lấy chàng trai nhà nào thì người con gái sẽ chuẩn bị 100 bó củi mang đến nộp cho nhà trai trong lễ cưới. Sau khi cưới xong thì cặp vợ chồng sẽ luân phiên sang ở nhà trai và nhà gái cứ khoảng 3 – 4 năm/ lần. Khi nào một trong 2 bên có cha mẹ qua đời thì mới bắt đầu định cư.

Trang phục truyền thống của người Giẻ Triêng rất đa dạng. Với nam giới sẽ thường mặc khố, khoác 1 chiếc áo choàng bên ngoài. Còn với nữ giới thì thường mặc váy được tạo bởi 2 tấm vải bông khâu ghép lại thành dạng hình ống. Váy có màu đen với nhiều họa tiết hoa văn có màu đỏ và trắng. Khi mặc thì váy sẽ được quấn cao ngang phần nách, che kín ngực và khoác thêm lên một tấm thổ cẩm để giữ ấm cho phần vai.

Đinh tút được biết đến là loại nhạc cụ tiêu biểu, tượng trưng cho văn hóa nghệ thuật của người dân tộc Giẻ Triêng. Chúng sẽ được dùng nhiều trong các dịp lễ hội, đặc biệt là hội Choóc đăil – lễ hội đinh tút của người dân tộc Giẻ Triêng.

28. Dân tộc Tà Ôi

Dân số dân tộc Tà Ôi: 52.356 người

Người dân tộc Tà Ôi thường sinh sống chính ở khu vực trên dải Trường Sơn nước ta. Họ có nhiều tên gọi khác nhau như là dân tộc Ta uôih, Ta uốt. Trước kia dân tộc Tà Ôi sống khá cách biệt với môi trường bên ngoài và thường sống chủ yếu nhờ hái lượm, săn bắn ở khu vực rừng sâu với rất nhiều thủ tục, văn hóa lạc hậu. Tuy nhiên sau đó nghe lời kêu gọi của Đảng và Nhà Nước ta nên đã ra khỏi rừng, sống hòa nhập cộng đồng và bắt đầu thực hiện các hoạt động kinh tế xóa đói giảm nghèo.

Với từng dòng họ người Tà Ôi khác nhau mỗi nơi sẽ có những tên gọi riêng cũng như các điều kiêng kỵ nhất định. Tuy nhiên họ sống theo chế độ phụ hệ, tất cả con cái đều sẽ mang họ cha. Và chỉ có người con trai mới được hưởng gia tài để lại về sau của cha mẹ.

Đời sống tín ngưỡng của người Tà Ôi cũng tin vào việc vạn vật đều tồn tại linh hồn và họ tin và thờ phụng rất nhiều vị thần như là thần nước, thần chỗ ở gia đình, thần nhà dài, thần hổ,..Hằng năm sẽ tổ chức các lễ cúng để cầu mong thần linh bảo vệ, chở che.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong hôn nhân gia đình thì các cặp đôi trai gái Tà Ôi sẽ được tự do tìm hiểu nhau. Họ sẽ đi “sim” – một tục lệ của người Tà Ôi để thử tìm hiểu bạn đời tuy nhiên sẽ không được làm những chuyện “chăn gối”. Sau đó nếu phù hợp sẽ trao các vật làm tin và phía nhà trai sẽ nhờ người mai mối sang hỏi cưới nhà gái.

Người dân tộc Tà Ôi cũng sở hữu kho tàng ca dao tục ngữ, câu đố, chuyện kể về nguồn gốc dòng họ, các bài học hay câu chuyện thể hiện tình yêu,.. cực kỳ phong phú. Những làn điệu dân ca trữ tình cũng là nét độc đáo của người Tà Ôi, có thể kể đến như: Rơin, Lum Tang Wai, Ka lơi,..

29. Dân tộc Mạ

Dân số dân tộc Mạ: 50.322 người

Tiếp tục trong bài viết Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam chính là dân tộc Mạ. Họ là dân tộc sinh sống chủ yếu ở khu vực các tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai với ngành nghề chính là làm nương rẫy, trồng lúa và các loại cây như bầu, bí, bông, thuốc lá,.. Họ cũng nuôi gia súc, gia cầm những thường sẽ để chúng sống thành đàn trong rừng. Và chỉ khi cần giết thịt thì mới bắt về làm thịt. Nghề dệt lụa và rèn sắt được biết là những nghề thủ công nổi tiếng của người dân tộc Mạ.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người Mạ cũng tuân theo chế độ phụ hệ nhưng khi cưới thì chú rể sẽ phải sang ở nhà vợ. Đến khi nào nộp đủ phần sính lễ cho nhà gái thì mới đưa vợ về hẳn nhà mình.

Trong văn học dân gian thì người dân tộc Mạ có rất nhiều truyện cổ, huyền thoại, truyền thuất độc đáo nổi bật nhất là những câu truyện về rừng. Người Mạ cũng có nhiều dân ca trữ tình, chúng được gọi là tam bớt.

Trang phục dân tộc Mạ cũng rất nổi bật khi nam giới sẽ đóng khố, cởi trần hoặc mặc áo chui đầu có xẻ tà có các tua dài với nhiều họa tiết sặc sỡ. Nữ giới thì sẽ mặc váy, áo chui đầu hình chữ nhật đứng, vừa sát thân và không xẻ tà. Ở dưới thân áo và sau lưng có trang trí nhiều hoa văn sặc sỡ sắc màu.

30. Dân tộc Co

Dân số dân tộc Co: 40.442 người

Dân tộc Co cư trú chủ yếu ở huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam) và huyện Trà Bồng (tỉnh Quảng Ngãi). Người Co còn có tên gọi khác là: Cor, Col, Cùa, Trầu. Tiếng Co thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer.

Đồng bào người dân tộc Co sinh sống chủ yếu nhờ nghề rẫy với việc trồng trọt các loại cây lúa, ngô, sắn và quế. Đặc biệt là cây quế được người Co trồng cho năng suất và nguồn thu nhập ổn định

Trong cộng đồng của người Co thì các bô lão rất có tiếng nói và được kính trọng, người được tôn làm trưởng làng sẽ là người có nhiều kinh nghiệm về các phong tục, hiểu biết rộng về các cách sản xuất và ứng xử xã hôi,.. được dân làng rất kính trọng và tín nhiệm.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người Co sẽ thường tìm hiểu nhau trước khi chính thức cưới xin, lễ cưới của họ cũng khá đơn giản không quá tốn kém. Trước kia thì hầu như người Co không kết hôn với những người dân tộc khác tuy nhiên ngày nay đã có rất nhiều nàng dâu, chàng rể là người Kinh, Hrê, Xơ đăng,..

Vì người dân tộc Co không dệt vải nên thường trang phục sẽ mua từ những dân tộc khác. Thường nam sẽ quấn khố, ở trần và nữ giới sẽ quấn váy, mặc áo yếm, áo cộc tay. Họ rất thích đeo vòng cổ, hoa tai, vòng tay bằng bạc hay các hạt cườm. Nhiều phụ nữ người Co quấn rất nhiều vòng cườm quanh phần lưng eo của mình.

31. Dân tộc Chơ Ro

Dân số dân tộc Chơ Ro: 29.520 người

Dân tộc Chơ Ro đã là một trong số 4 dân tộc sinh sống lâu đời tại khu vực Đồng Nai. Ngoài ra đồng bào Chơ Ro còn sinh sống nhiều ở những khu vực như Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận,.. Nguồn sống của người Chơ Ro chủ yếu là về ruộng nước, chăn nuôi, săn bắn, đan lát,..

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Họ cũng thờ phụng rất nhiều vị thần khác nhau, vị thần tối cao trong tín ngưỡng người Chơ Ro chính là thần Yang N’du – vị thần sáng tạo nên thế giới, tiếp theo sẽ là thần Yang Koi – thần lúa, thần Tang Dah – thần nước, thần Yang Bri – thần rừng,.. Trong đó thì con số may mắn tượng trưng cho sự vẹn toàn, đủ đầy theo quan niệm của người Chơ Ro đó chính là số 7.

Người Chơ Ro không theo chế độ mẫu hệ hay phụ hệ mà họ tôn trọng như nhau. Vì ngày xưa không có hệ thống chữ viết nên hầu hết mọi câu chuyên lịch sử, các truyện dân gian đều sẽ được kể truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác. Trong đó sẽ có nhiều câu chuyện kể về sự ra đời của loài người, những tổ tiên của người Chơ Ro,..

32. Dân tộc Xinh Mun

Dân số dân tộc Xinh Mun: 29.503 người

Đồng bào dân tộc Xinh Mun sinh sống chủ yếu ở những tỉnh Lai Châu, Sơn La thuộc miền Bắc nước ta. Bên cạnh việc trồng lúa, làm nương rẫy thì săn bắt hái lượm cũng là hoạt động quan trọng trong đời sống của người dân Xinh Mun.

Trước kia người dân Xinh Mun chủ yếu sống du canh du cư, không cố định chỗ ở tuy nhiên dần về sau đã ổn định lập làng đông đúc và quây quần chung lại với nhau. Họ có rất nhiều tập quán vẫn được giữ vững qua thời gian như là ăn trầu, uống rượu cần, nhuộm răng và ăn những loại có gia vị cay nồng.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong hôn nhân của người Xinh Mun thì nhà trai sẽ phải đưa tiền cưới cho nhà gái. Sau khi làm lễ cưới và năm đến khi cô dâu chú rể đã có con thì lúc này phía nhà trai mới làm lễ đón dâu về. Trong suốt quá trình ở rể thì cả cô dâu và chú rể phải đổi tên riêng theo tên mà bố mẹ vợ, ông cậu hay thầy cúng đặt cho. Qúa trình sinh đẻ sẽ diễn ra ở nhà cô dâu, khi đứa trẻ đầy tháng thì sẽ mời thầy cúng về nhờ đặt tên hộ.

33. Dân tộc Hà Nhì

Dân số dân tộc Hà Nhì: 25.539 người

Người Hà Nhì ở Việt Nam hiện đang cư trú chính tại các tỉnh Lào Cai, Lai Châu nằm giáp với biên giới của Trung Quốc. Họ sử dụng ngôn ngữ Hà Nhì thuộc nhanh ngôn ngữ Di của nhóm Lô Lô, trong tộc ngữ tộc Tạng – Miến, Hán – Tạng. Người dân tộc Hà Nhì sống bằng nghề làm ruộng với hệ thống ruộng bậc thang cực kỳ nổi bật. So với những dân tộc khác thì người dân tộc Hà Nhì đã có nhận thức và trình độ học vấn tốt hơn.

Người dân tộc Hà Nhì chia thành rất nhiều họ khác nhau, và tên sẽ được đặt theo tên của người cha. Phần tên đệm được đặt theo tên của con vật ứng theo ngày sinh. Trước khi kết hôn thì nam nữ sẽ có thể tìm hiểu nhau, hẹn hò và hát giao duyên, đến khi ngủ thử với nhau thấy hợp thì phía nhà trai sẽ mang gạo, thịt, gà lợn sang hỏi cưới. Tùy khu vực người Hà Nhì mà sẽ có ở rể hoặc không.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người dân tộc Hà Nhì có rấy nhiều lễ lớn trong năm như là: Tết truyền thống của người Hà Nhì – Hồ Sự Chà thường tổ chức sau khi mùa màng đã xong tầm tháng 11 dương lịch, tết thiếu nhi của người Hà Nhì sẽ được tổ chức sau Tết Nguyên Đán tầm 2 tuần để cho các trẻ em được sắm quần áo mới, vui chơi. Những ngày lễ cũng quan trọng không kém trong văn hóa người Hà Nhì đó là lễ gạ ma thú.lễ Khu già già, lễ Ga Tho Tho và các lễ cúng lúa mới, lễ ăn nếp mới,..

Ngoài các truyện cổ, thơ dài thì những nhạc cụ kèn lá, đàn môi, sáo dọc, đàn La Khư hay các điệu múa dân giân cũng là nét đẹp văn hóa đặc sắc của người dân tộc Hà Nhì.

34. Dân tộc Chu Ru

Dân số dân tộc Chu Ru: 23.242 người

Người Chu Ru hay còn biết đến là dân tộc Chơ Ru, Choru, Kru,.. là dân tộc sinh sống chủ yếu ở các tỉnh Ninh Thuận, Lâm Đồng. Họ sinh sống theo từng làng và có một người đàn ông cao tuổi đứng đầu để thực hiện các nghi lễ. Trong cộng đồng của người dân tộc Chu Ru cũng được phân chia thành nhiều nhóm khác nhau trong đó ngoài chủ làng, già làng, thầy cúng và bà đỡ để phụ trách nhiều nhiệm vụ khác nhau thì hầu hết người dân sẽ được phân chia rõ thành 2 tầng lớp giàu và nghèo. Trong đó cách phân biệt sẽ là dựa trên các đồ vật mà họ mang trên người như là ngà voi, chiêng, sừng tê giác, trống, ché,.. Sở dĩ có sự giàu nghèo này chủ yếu dựa trên sức lao động nhiều ít của người dân chứ không có yếu tố bóc lột.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Thường thì người Chu Ru sẽ sinh sống thành các đại gia đình lớn gồm 3 – 4 thế hệ cùng sinh hoạt trong một ngôi nhà, Tất cả các thành viên trong gia đình sẽ cùng nhau sản xuất và hưởng chung sản phẩm, quy thành sản phẩm chung của gia đình. Hiện nay trong gia đình Chu Ru vẫn còn nhiều tàn dư của chế độ mẫu hệ khi mà người vợ, người cậu trong nhà vẫn sẽ chuyển quyền thừa kế cho người con gái,

Người Chu Ru hiện vẫn còn có tín ngưỡng thờ cúng các vị thần linh. Theo quan niệm của họ thì khi người dân bị bệnh tật gì sẽ đều là do thần Yang gây ra, bên cạnh việc dùng bùa chú hay cúng bái trị bệnh thì cũng sẽ nhờ các thầy cúng có kinh nghiệm đến để trị bệnh kết hợp với chế thuốc từ những loại cây rừng để chữa trị.

35. Dân tộc Lào

Dân số dân tộc Lào: 17.532 người

Dân tộc Lào là một trong số các dân tộc thiểu số hiện đang cư trú ở các tỉnh Lào Cai, Điện Biên, Sơn La. Ngoài áp dụng các kỹ thuật canh tác, làm thủy lợi để trồng lúa nước thì người dân tộc Lào còn có các nghề phụ như là làm gốm, dệt, làm đồ bạc, rèn,..

Trong văn hóa của người dân tộc Lào sẽ có một người giỏi chữ thực hiện việc ghi chép các câu truyện cổ hay dân ca để lưu truyền sang nhiều thế hệ, tránh bị mai một. Ngoài ra thì văn nghệ dân gian của người Lào cũng sẽ có chịu ảnh hưởng một phần của văn nghệ dân gian của dân tộc Thái.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trang phục truyền thống của người dân tộc Lào với nam giới sẽ mặc áo bông nhuộm chàm có hàng cúc làm bằng gỗ hoặc vải giống như loại áo của người đàn ông dân tộc Thái. Còn trang phục của nữ giới sẽ mặc váy đen quấn cao lên trên ngực, phần gấu váy có đa dạng hoa văn sặc sỡ, phần áo sẽ bó vào thân và có hàng khuy bạc phổ biến.

36. Dân tộc Kháng

Dân số dân tộc Kháng: 16.180 người

Người Kháng, còn gọi là Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đón, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Aỏi, Xá Bung, Quảng Lâm, là dân tộc cư trú tại bắc Việt Nam và Lào.

Người Kháng nói tiếng Kháng, là ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Môn-Khmer. Tuy nhiên vị trí của nó trong nhánh Môn-Khmer chưa được xác định rõ ràng, Tiếng Kháng được cho là thuộc ngữ chi Khơ Mú hoặc ngữ chi Palaung.

Người Kháng sinh sống tại 2 tỉnh Sơn La và Lai Châu.

Người Kháng thường làm nông, rẫy và các nghề chăn nuôi, đan lát và làm thuyền độc mộc là chủ yếu. Một trong số những nét đẹp trong văn hóa của họ nằm ở tại ngôi nhà sàn. Nhà sàn người Kháng có 2 chái và 3 gian với phần mái có hình mu rùa, có 2 cửa sổ phía 2 bên và 2 cửa ra vào ở 2 đầu. Trong mỗi ngôi nhà đều sẽ có 2 gian bếp, 1 là dùng để nấu đồ ăn hàng ngày và 1 là đề sử dụng nấu các đồ cúng tế.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Việc kết hôn của dân tộc Kháng cũng hoàn toàn tự do và lễ nghi cũng không quá phức tạp. Sau quá trình chàng trai ngủ tại nhà người con gái 4 – 5 đêm để tìm hiểu thì nếu ưng nhau sẽ bắt đầu tiến hành làm lễ ăn hỏi. Sau 3 năm ở rể thì đôi vợ chồng sẽ làm lễ để ra mắt họ hàng và cuối cùng mới rước dâu.

37. Dân tộc La Chí

Dân số dân tộc La Chí: 15.126 người

Người dân tộc La Chí sinh sống ở khu vực Lào Cai, Hà Giang với phong tục trồng lúa nước, làm ruộng bậc thang và những vùng đất nương tốt sẽ dùng để trồng bông, trồng chàm. Họ thường sống trong những ngôi nhà kiểu quần thể nhà sàn, nhà trệt và nhà kho trong một không gia nhỏ tuy nhiên lại có lối kiến trúc chặt chẽ vô cùng độc đáo. Thường trong một gia đình thì sẽ có nhiều thế hệ hay các cặp vợ chồng cùng sinh sống chung với nhau.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người La Chí sẽ thờ cúng tổ tiên vào những dịp lễ Tết và đặc biệt trong những ngày chôn cất ba mẹ thì con cái sẽ cần ghi nhớ và hàng năm đến ngày này sẽ không được gieo lúa, cho vay hay mượn vào ngày này.

Phong tục nhận ba mẹ nuôi cho trẻ sơ sinh khá phổ biến đối với người La Chí. Sau khi chào đời được 3 ngày thì nhà gia chủ sẽ đặt 1 sợi chỉ đỏ lên bát nước đầy đặt lên bàn thờ, khi có người nào đó từ bên ngoài bước vào nhà thì sẽ trở thành ba mẹ nuôi của đứa trẻ và sẽ có nhiệm vụ đặc tên cho trẻ. Nếu như đứa trẻ hay khóc nhiều chứng tỏ là tên chưa hợp người, lúc này sẽ cần bói để tìm ba mẹ nuôi thích hợp đặt tên cho bé.

Người dân tộc La Chí có cách nấu ăn bằng hơi nước tấy độc đáo. Cơm họ sẽ nấu trong chiếc chảo to, khi cơm sôi thì sẽ vớt lên và cho vào chỗ như là xôi. Cơm sẽ nấu chín bằng hơi nước nóng và không bị nát hạt. Đối với những thức ăn khác sẽ sấy khô để dùng dần hoặc làm thịt chua.

38. Dân tộc Phù Lá

Dân số dân tộc Phù Lá: 12.471 người

Người dân tộc Phù Lá sinh sống nhiều nhất ở tại tỉnh Lào Cai của nước ta, ngoài ra cũng sẽ có một số ít sống tại các vùng Hà Giang, Yên Bái. Ngoài tên gọi là Phù Lá thì dân tộc này còn được biết đến là dân tộc Xá Phó, Bồ Khô Pạ, Va Xơ Lao,… Ngành nghề thủ công của người Phù Lá cũng rất nổi tiếng với các sản phẩm đan mây, tre để làm các dụng cụ chứa đựng như là gùi. Họ sẽ dùng chúng để đem đổi lấy nhiều món hàng hóa khác để sử dụng trong đời sống.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Đời sống của người dân Phù Lá về mặt vật chất có thể sẽ còn nhiều thiếu thốn tuy nhiên đời sống tinh thần của họ là cực kỳ phong phú, thể hiện rõ nét nhất chính là những ca khúc mang đậm âm hưởng núi rừng mà dân tộc Phù Lá sở hữu. Với lối hát kể, hát đối có độ luyến láy, lên xuống cao độ ở giọng điệu thể hiện người Phù Lá sẽ truyền tải được cho nhau những truyền thông văn hóa lâu đời của dân tộc mình, về rừng, núi và những thửa ruộng bậc thang.

Trang phục dân tộc Phù Lá rất đặc sắc khi nó vừa mang trong mình nét đẹp cổ truyền nhưng cũng rất hiện đại. Với nam giới sẽ mặc loại áo xẻ ngực được may từ 6 miếng vải tạo thành. Phần cổ áo thấp, ống tay hẹp và phần cổ tay có thêu hoa văn đẹp mắt. Với nữ giới thì thường mặc áo 5 thân dài tay, phần cổ thấp và vuông, kiểu chui đầu. Váy màu chàm đen và có phần đầu và chân váy trang trí hoa văn sặc sỡ. Trên đầu quấn khăn hoặc đội một chiếc mũ thêu ghép hoa văn theo lối chữ nhất.

39. Dân tộc La Hủ

Dân số dân tộc La Hủ: 12.113 người

Ngoài tên gọi La Hủ thì dân tộc này còn được gọi bằng nhiều tên khác như Cò Xung, Xá Lá Vàng, Khù Sung, Khả Quy,.. Họ thường sống tập trung chủ yếu ở vùng Lai Châu, Thái Nguyên. Ngôn ngữ của người La Hủ thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến của hệ Hán – Tạng.

Trước kia thì người dân La Hủ sẽ sống chủ yếu nhờ làm rẫy, lái lượm và săn bắn là chính. Tuy nhiên trong giai đoạn những năm gần đây thì họ đã biết trồng lúc nước và sử dụng trâu cày làm ruộng.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Ở trong gia đình của người dân tộc La Hủ thì chỉ có người con trai trong nhà mới được thừa hưởng tài sản mà ba mẹ để lại. Về hôn nhân thì hoàn toàn tự do lựa chọn, tuy nhiên sau khi kết hôn thì chú rể sẽ cần ở nhà vợ sinh sống từ 2 – 3 năm sau đó mới được đưa vợ về nhà mình. Người phụ nữ sẽ sinh đẻ ở tại chính buồng ngủ của mình và sau 3 ngày đứa trẻ sẽ được đặt tên, nếu như trong 3 ngày này mà nhà có khách vào chơi thì người khách sẽ được đặt tên cho đứa trẻ.

Người La Hủ rất thích văn nghệ khi có đến hơn chục điệu múa khèn và các bài hát của người dân tộc La Hủ mang một nhịp điệu rất riêng và sử dụng tiếng Hà Nhì để hát.

40. Dân tộc La Ha

Dân số dân tộc La Ha: 10.157 người

Đồng bào dân tộc La Ha nằm trong danh sách 16 dân tộc ít người của nước ta. Họ sinh sống chính tại tỉnh Sơn La và lấy nghề làm rẫy, hái lượm để có nguồn thức ăn chính. Ngày nay người La Ha đã biết trồng lúa nước và nuôi thêm các loài gia súc gia cầm để cải thiện đời sống.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Việc yêu đương của người La Ha hoàn toàn tự do tuy nhiên khi cưới xin cần có sự ưng thuận từ phía ba mẹ. Để tỏ tình với cô gái thì chàng trai sẽ đi đến nhà cô gái để sử dụng những nhạc cụ như sáo, nhị và lời ca để tỏ bày trước khi nói chuyện. Nếu như sau lễ dạm hỏi mà nhà gái không trả lại trầu cho bà mối phía nhà trai đưa đến thì sẽ tổ chức lễ xin ở rể và thời gian ở rể sẽ từ 4 năm – 8 năm. Sau thời hạn này thì lễ cưới sẽ được tiền hành, lúc này cô dâu sẽ theo chồng về nhà và phải đổi họ theo chồng.

41. Dân tộc Pà Thẻn

Dân số dân tộc Pà Thẻn: 8.248 người

Người dân tộc Pà Thẻn sinh sống chủ yếu tại 2 tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang.

Người Pà Thẻn sống bằng nghề trồng lúa nước, làm nương rẫy và trồng cây chè Shan tuyết. Những người Pà Thẻn chia làm nhiều họ khác nhau và người dân tộc này cũng quy định khi cùng họ thì đã là người thân thích và không được lấy nhau.

Người dân tộc Pà Thẻn có phong tục ở rể tạm thời, với những gia đình không có con trai thì có thể lấy rể ở hẳn. Tuy con cái sinh ra mang họ ba nhưng sẽ vẫn phải thờ họ vợ.

Người dân Pà Thẻn có quan niệm là xung quanh họ luôn có các vị thần ở bên che chở, bảo vệ nên họ có thể vượt qua được nhiều khó khăn, trở ngại. Đặc biệt vị thần tối cao của người Pà Thẻn đó chính là thần Lửa. Họ thường tổ chức lễ hội nhảy lưa linh thiêng, huyền bí để cúng thần và thực hiện nghi thức nhảy qua đống than hồng. 10 thanh niên khỏe mạnh trong làng sẽ nhảy vào phần lửa than đang cháy bằng đôi chân trần, tuy nhiên lại không sợ hãi hay bị bỏng chút nào.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Chính giá trị văn hóa đặc sắc mà lễ hội này mang đến nên đến 2013 lễ hội nhảy lửa đã được công nhận là một trong số những Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia của nước ta. Trở thành điểm hấp dẫn du lịch thu hút nhiều khách tham quan trong và ngoài nước đến đây chiêm ngưỡng mối dịp lễ hội diễn ra.

42. Dân tộc Chứt

Dân số dân tộc Chứt: 7.513 người

Người dân tộc Chứt sinh sống tập trung tại tỉnh Quảng Bình, Đak Lak, Hà Tĩnh, Lâm Đồng. Ngôn ngữ mà người Chứt sử dụng có cùng hệ với tiếng Việt nguyên thủy. Trước kia họ sống chủ yếu theo lối du canh du cư và khá nhút nhát, gặp người lạ là sẽ lẩn trốn vào rừng. Thường khi ấu cũng chưa có quần áo mà chỉ che thân bằng vỏ cây sui, ngủ trong các lều tự tạo hoặc hang động. Đến hiện nay thì người Chứt đã sống định canh định cư và biết trồng trọt, canh tác cũng như chăn nuôi, đan lát.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người Chứt rất tin vào các vị thần và người tối cao trong tín ngưỡng của họ chính là Thần Nông. Khi mỗi hoạt động nông nghiệp quan trọng diễn ra như xuống giống, gieo hạt,.. đều tổ chức lễ cúng bái.

Người dân tộc Chứt có món cơm Pồi rất nổi tiếng. Nó được nấu từ lúa nếp, ngô, sắn và đậu mang nấu chính sau đó cho vào cối giã nhuyễn thành bột, nhồi thật kỹ. Họ dùng ống tre hay nghè hông để bỏ bột giã nhuyễn vào, cho thêm ít nước và lấy mo chuối quấn quanh miệng. Loại cơm này thường sẽ ăn chung với các loại cá, ôc, rau rừng hay thịt thú rừng

43. Dân tộc Lự

Dân số dân tộc Lự: 6.757 người

Người Lự cư trú chủ yếu tập trung ở 2 huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu và một lượng đáng kể di cư vào tỉnh Lâm Đồng.

Người Lự đã có truyền thống làm ruộng từ rất lâu đời, họ biết cày bừa, dẫn nước vào mương, gieo mạ, cấy lúa và còn trồng thêm rất nhiều loại cây ngô, khoai, sắn, chàm, bông cạnh phía vườn nhà. Hầu như nghề dệt khá phổ biến với người Lự khi đi đến mỗi gia đình sẽ đều thấy có vài ba khung cửi ở đó.

Người Lự theo tín ngưỡng Phật giáo Nam tông có nơi thờ tự. Lễ hội lớn nhất tôn thờ các vị Phật sẽ diễn ra vào tháng 6 dương lịch hàng năm mang tên là lễ hội Songkran. Trong lễ hội các nhà sư, người dân sẽ được dự tiệc chúc mừng và thực hiện nghi lễ té nước như gửi tặng nhau lời cầu mong may mắn.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Hôn nhân của người Lự thì phía chú rể sẽ phải ở rể trong 3 năm nhà vợ trước khi ra riêng. Con cái khi sinh ra sẽ lấy họ cha. Nếu là con trai sẽ có chữ đệm là Bạ, con gái sẽ có chữ đệm là Ý. Người Lự cũng sống khá chung thủy với nhau, và theo luật lệ nếu như trai bỏ vợ, gái bỏ chồng sẽ bị phạt rất nặng

44. Dân tộc Lô Lô

Dân số dân tộc Lô Lô: 4.827 người

Đồng bào dân tộc Lô Lô sinh sống ở khu vực các tỉnh Cao Bằng và Hà Giang. Tuy là dân tộc thiểu số ít người nhưng những nét văn hóa lâu đời, giá trị truyền thống luôn được gìn giữ theo năm tháng. Thường thì người Lô Lô sẽ cư trú trong những ngôi nhà dựa lưng vào phần vách núi với cửa hướng về phía thung lũng và cánh đồng. Không gia nhà ở cũng có 3 gian như một số dân tộc khác với gian giữa để bàn thờ tổ tiên, tiếp khách và tổ chức đám cưới, đám ma. Gian bên phải là nơi mà ông bà và bố mẹ sẽ sinh sống còn gian bên trái là nơi mà con trai, con dâu hay con rể sẽ ở. Một phần gác phía trên sẽ dùng cho khách ngủ lại hoặc để các đồ thực phẩm khô trong nhà.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong hôn nhân thì người nam và người nữ dân tộc Lô Lô có thể tự do tìm hiểu nhau, đến khi muốn kết hôn phía nhà nam sẽ cần nhờ 4 người làm mối là 2 cặp nam nữ đến nhà gái hỏi cưới. Thường lễ vật cưới sẽ được mang đến nhà ông cậu – người quyết định các việc hôn nhân hay phân chia tài sản trong nhà chứ không trực tiếp mang đến nhà cô dâu,

Trống đồng đối với người Lô Lô giống như là một báu vật thiêng liêng mà những thế hệ trước sẽ truyền lại cho thế hệ sau, chúng không chỉ mang yếu tố tâm linh mà còn là biểu tượng của sức sống dân tộc người Lô Lô

45. Dân tộc Mảng

Dân số dân tộc Mảng: 4.650 người

Người Mảng sống đông đúc nhất tại khu vực Nậm Nhùn, Lai Châu. Ở đây người dân tộc Mảng thờ vị thần tối cao là trời và cũng rất tin tưởng vào các yếu tố tâm linh đã tạo nên nhiều tục lệ kiêng kị như là con dâu không được vào phòng ngủ của bố mẹ chồng, người chết khi mang đi chôn phải đi về phía cửa phụ chứ không được đi cửa chính,..

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Đám cưới của người Mảng cũng là hoạt động mang tính cộng đồng khá cao khi tất cả người trong bản sẽ giúp nhau thực hiện và hoàn tất sẽ tổ chức liên hoan, quây quần múa xòe. Ngày chọn làm lễ cưới cần vào những lúc mùa màng thu hoạch xong, phải là ngày đẹp không phạm vào ngày mất của người thân 2 bên gia đình. Lễ vật nhà trai cần chuẩn bị sẽ gồm có bạc trắng, lợn, gà, rượu cần, gạo nếp, cá suối sấy khô và thịt sóc hoặc chuột đã được sấy khô. Những lễ vật này trong quan niệm người Mảng chính là dùng để đổi lấy con dâu nên trong khi tổ chức tại nhà gái thì ba mẹ chồng sẽ không được đến dự. Đặc biệt người dân tộc Mảng còn có tục lệ hất bùn, rượu và bôi nhọ nồi vào mặt nhau trong lễ cưới để cầu chúc may mắn

46. Dân tộc Cờ Lao

Dân số dân tộc Cờ Lao: 4.003 người

Người dân tộc Cờ Lao sinh sống tại các huyện Đồng Văn và Hoàng Su Phì thuộc tỉnh Hà Giang và họ sử dụng ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Tai-Kadai, tuy nhiên hiện nay còn rất ít người có thể nói được thứ tiếng này, hầu như đã chuyển sang sử dụng một loại ngôn ngữ là tiếng Quan Thoại. Họ đôi khi cũng sẽ dùng ngôn ngữ Bố Y hay H’Mông để thay thế.

Họ sinh sống trên những khu vực núi đá nên thường chủ yếu là sẽ làm nương cày, thổ canh là chính. Tại đây cây ngô là lương chính của người Cờ Lao. Với những người sống tại vùng núi đất thì sẽ chuyển sang sinh sống bằng trồng ruộng bậc thang, đan lát, làm đồ gỗ.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong tín ngưỡng người Cờ Lao thì họ tin rằng mỗi người, cây lúa, cây bắp hay các loài gia súc đều có linh hồn và cứ vào mỗi dịp gặt lúa xong sẽ tổ chức lễ cúng. Vị thần quan trọng được hầu hết toàn bản thờ cúng đó chính là Thần Đất

Với mỗi nhóm người Cờ Lao khác nhau thì tục lệ cưới xin sẽ có nhiều đổi khác. Với người Cờ Lao Xanh thì chú rể sẽ mặc một chiếc áo dài xnah, quấn khăn đỏ qua người và cô dâu về đến cổng nhà cần đạp vỡ một cái bát và một cái muôi gỗ trước nhà trước khi vào. Hiện nay cách cướp vợ, kéo vợ giống như người H’Mông vẫn diễn ra trong dân tộ Cờ Lao.

Trong gia đình người Cờ Lao nếu thiếu con trai thì chàng rể có thể sẽ phải ở nhà vợ và được thừa hưởng tài sản của ba mẹ vợ. Ở nhà sẽ có thể đặt được bàn thờ tổ tiên của mình và bàn thờ bên vợ.

47. Dân tộc Bố Y

Dân số dân tộc Bố Y: 3.232 người

Người dân tộc Bố Y hiện đang sống tập trung nhiều ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái và Tuyên Quang. Họ sử dụng ngôn ngữ thuộc chi Thái trong hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Người Bố Y sống bằng nghề làm nương rẫy, chăn nuôi gia súc gia cầm và có nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi cá. Họ sẽ ra sông tìm trứng cá và bỏ và ao hoặc ruộng nước để nuôi.

Vì sống ở khu vực núi cao có độ ẩm và lượng mưa lớn nên nhà ở bắt buộc phải sử dụng đến các vật liệu chắc chắn như là tre, gỗ. Thường các nhà ở đều sẽ nằm quây quần bên khu vực sườn đồi hay bờ suối, thung lũng có nền tôn cao.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Hôn lễ người Bố Y khá phức tạp và tốn kém nhiều chi phí. Nét độc đáo chính là chàng rể sẽ không đi đón dâu mà cô em gái của chú rể sẽ dắt ngựa để đến rước chị dâu về nhà chồng. Khi đi về nhà chồng thì cô dâu sẽ mang theo một cái kéo, một con gà mái nhỏ để đi giữa đường thả gà vào rừng

Trang phục của người Bố Y với nam giới sẽ mặc áo cánh ngắn tứ thân có cổ viền, quần lá tọa màu chàm. Còn nữ sẽ mặc áo Pư ngắn có phần ống tay rời, xiêm che bụng và ngực, váy Phin xòe có hoa văn.

48. Dân tộc Cống

Dân số dân tộc Cống: 2.729 người

Người Cống sinh sống tập trung tại Điện Biên và Lai Châu là chủ yếu. Họ sống bằng nghề làm nương rẫy, hầu hết thức ăn đều tìm kiếm trong rừng, bắt cá bằng tay hay dùng các loại bả thuốc độc làm từ lá cây rừng. Phụ nữ người Cống không biết dệt vải nên hầu hết họ sẽ trồng bông và đem đổi lấy vải hay quần áo, tuy nhiên họ lại đan lát rất giỏi.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Ngày trước theo tục lệ chỉ cho người cùng dân tộc lấy nhau nhưng về sau đã có thể cưới được người dân tộc khác. Với những người cùng dòng họ thì cần cách 7 đời mới được kết hôn với nhau. Thường thì sau lễ dạm hỏi chàng trai sẽ bắt đầu ở rể, cô gái có chồng sẽ búi tóc lên đỉnh đầu. Đến khi nào cả hai sinh được con thì mới làm đám cưới. Để tổ chức lễ thì phía nhà trai cần có bạc trắng để nộp cho nhà gái, còn nhà gái phải có của hồi môn cho cô dâu mang về nhà chồng

49. Dân tộc Ngái

Dân số dân tộc Ngái: 1.649 người

Người dân tộc Ngái sử dụng ngôn ngữ theo hệ Hán – Tạng. Họ thường sinh sống đông nhất tại các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Đồng Nai, Bình Thuận,.. Tùy thuộc vào khu vực sinh sống mà người dân tộc Ngái sẽ có thể trồng lúa, làm đồ thủ công, đánh bắt cá,..

Trong hôn nhân gia đình người Ngái khá bình đẳng với nhau, người chồng sẽ là trụ cột chính. Trước kia trong lễ cưới hỏi người Ngái sẽ trải qua 2 lần cưới là lễ thành hôn và lễ nhập phòng. Phụ nữ người Ngái khi sinh con sẽ cần kiêng cữ rất nhiều thức và sau khi sinh con đầu 60 ngày hoặc với con thứ 40 ngày mới được về nhà mẹ đẻ.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Ông cậu có vai trò khá quan trọng trong gia đình người Ngái. Đây là người sẽ giống như người cha thứ 2 của các chị em gái trong nhà, khi cháu sinh con thì cũng sẽ là người giúp đặt tên cho cháu ngoại.

50. Dân tộc Si La

Dân số dân tộc Si La: 909 người

Người Si La hiện đang sinh sống tại Lai Châu, họ sử dụng ngôn ngữ thuộc ngôn ngữ Tạng-Miến thuộc hệ Hán – Tạng. Người Si La sinh sống bằng nghề trồng ngô, trồng lúa. Người dân tộc Si La có rất nhiều dòng họ và đều có quan hệ rất khắng khít với nhau.

Trong hôn nhân của người Si La sẽ là một vợ một chồng. Tuy nhiên những con cô con cậu cách 3 đời sẽ được phép kết hôn với nhau. Họ không chấp nhận ly hôn tuy nhiên lại cho phép những người góa bụa được tái hôn. Thường thì sau lễ cưới cô dâu sẽ có thể về sống tại nhà chồng. Hoặc rể đến ở nhà vợ trong khoảng từ 1- 8 năm, tuy nhiên không ở đời. Sau khi hết thời hạn ở rể sẽ buộc tách ra ở riêng và có thể làm nhà sát bố mẹ vợ để tiện chăm sóc.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Khi mang thai thì người phụ nữ Si La sẽ cần kiêng cữ nhiều thứ, và họ sinh con trong nhà bằng hình thức đẻ ngồi. Sau khi sinh thì bố mẹ sẽ mời người già trong bản làng đến để nhờ đặt tên hộ, sau 3 ngày đặt tên sẽ thực hiện lễ cúng hồn cho trẻ. Tên của người Si La có phân biệt rõ giới tính thông qua họ đó là nam giới sẽ có đệm là Chà, nữ giới sẽ có đệm là Có.

Trang phục dân tộc người Si La khá cầu kỳ khi phần áo trước ngực sẽ may khác màu so với những vị trí khác và sẽ đính lên nhiều đồng xu nhôm, đồng xu bạc. Mỗi lứa tuổi khác nhau thì người phụ nữ Si La sẽ có các khăn đội đầu mang màu sắc khác nhau. Thường thì phụ nữ Si La có đeo bên mình một chiếc túi dây rừng có trang trí 1 sợi chỉ đỏ.

51. Dân tộc Pu Péo

Dân số dân tộc Pu Péo: 903 người

Người Pu Péo sinh sống tập trung chủ yếu tại khu vực Cao nguyên Đồng Văn, Hà Giang với nghề làm ruộng bậc thang, trồng ngô, mạch ba góc, đậu,.. Loại lương thực chính của họ thường ngày chính là bột ngô đồ chín.

Tương tự như những dân tộc anh em sinh sống tại miền núi phía Bắc nước ta thì người Pu Péo cũng có tín ngưỡng thờ đa Thần. Họ thờ nhiều thần linh như thần rừng, thần núi, thần suối, thần sông,.. Trong đó lễ hội cúng thần rừng của người Pu Péo lại có nét văn hóa đặc trưng riêng không giống với bất cứ dân tộc khác.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người Pu Péo có rất nhiều dòng họ khác nhau và họ có một tập tục đó là khi người con trai họ này đã kết hôn với con gái họ kia thì về sau con trai họ kia sẽ không được lấy vợ là người họ này nữa. Sau khi kết hôn con dâu sẽ về nhà chồng và con cái sinh ra sẽ mang họ cha.

Hiện nay dân tộc Pu Péo là một trong số ít những dân tộc Việt còn sử dụng trống đồng trong đời sống. Họ dùng nhiều nhất là ở các ngày lễ chay với 2 trống đực và cái treo đối diện nhau, một người đứng giữa sẽ cầm củ chuối gõ vào mặt trống.

52. Dân tộc Rơ Măm

Dân số dân tộc Rơ Măm: 639 người

Người Rơ Măm cư trú tập trung chính ở tại Kon Tum thường sống bằng nghề trồng lúa nếp, làm rẫy là chính. Mỗi ngôi nhà trong làng sẽ có tầm 10 – 20 người thuộc nhiều thế hệ khác nhau cùng sinh sống. Hiện thì những cặp vợ chồng anh chị em trong nhà đã gần như độc lập về kinh tế.

Lễ cưới của người Rơ Măm sẽ gồm 2 bước là ăn hỏi và lễ cưới. Họ có nét độc đáo là sau khi cưới xong có thể bỏ nhau nhưng khi đã sống chung thì sẽ gần như không bỏ nhau nữa. Khi sinh đẻ thì người phụ nữ Rơ Măm sẽ sống trong một ngôi nhà nhỏ ngoài rừng, đến ngày sinh sẽ nhờ một bà đỡ đẻ có kinh nghiệm trong làng. Trong giai đoạn có thai đến khi đứa trẻ được 3 tuổi thì người mẹ sẽ phải kiêng ăn các món nhiều mỡ. Trước kia khi còn sinh trong nhà thì người Rơ Măm kiêng không cho người lạ vào, nếu có ai vị phạm sẽ buộc giữ lại trong nhà cho đến khi hết thời gian kiêng của đứa trẻ và tên của đứa trẻ sẽ buộc đặt theo tên của khách.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người dân tộc Rơ Măm hiện vẫn còn dữ tập tục ăn bốc và món ưa thích thường xuất hiện trong bữa ăn hàng ngày là cơm nếp đốt trong ống tre ăn với canh và muối ớt. Nước uống sẽ lấy từ các mạch nước ngầm và đựng trong vỏ bầu khô, uống trực tiếp mà không cần đun sôi.

Ngày lễ lớn nhất của người Rơ Măm diễn ra sau khi kết thúc mùa thu hoạch rẫy, lúc này các gia đình sẽ mở lễ ăn mừng kế tiếp nhau. Sau khi lễ mừng lúa mới kết thức là thời điểm các lễ kết hôn hay lễ bỏ mã cho người đã chết sẽ diễn ra

53. Dân tộc Brâu

Dân số dân tộc Brâu: 525 người

Đồng bào dân tộc Brâu sử dụng ngôn ngữ thuộc hệ tộc Môn – Khmer. Họ quen sống theo lối du canh du cư với phương pháp đốt rừng làm rẫy để trồng lúa, ngô, khoai sắn tuy nhiên kỹ thuật trồng trọt còn kém, công cụ sản xuất còn thô sơ nên chứ có năng suất cao.

Trong phong tục của người Brâu thì lễ cúng nhà mới được xem là một dịp trọng đại, lúc này sẽ mời cả làng đến tham dự bữa tiệc chung vui.

Trang phục dân tộc Brâu khá đơn giản nhưng vẫn giữ được nét tinh tế. Với đàn ông sẽ mặc áo thân thẳng có hình vuông với các họa tiết hoa văn hình mũi tên hay hàng rào trên áo để thể hiện sự khỏe khoắn. Phụ nữ thì sẽ mặc các loại váy có hoa văn nhẹ nhàng cùng với đó là nhiều đồ trang sức bằng vàng, bạc sử dụng đeo ở chân và tay.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Hiện nay người Brâu vẫn giữ được tục cà răng như là một lễ trưởng thành và quan niệm nó giống thủ tục giúp sau này người chết có thể về với tổ tiên của mình. Thủ tục này diễn ra trong nhiều giờ đồng hồ và người ta sẽ dùng đá mài để mài nhẵn sát phần lợi cho 4 chiếc răng cửa hàm. Kết thúc họ sẽ dùng một loại vỏ cây rừng để cầm máu, sát trùng và giảm đau

Chiêng tha được biết đến là loại nhạc cụ dân tộc cổ truyền của người dân tộc Brâu. Nó có giá trị lên đến từ 30 – 50 con trâu cho một bộ. Là biểu tượng của yếu tố tinh thần, tâm linh của người Brâu trong sinh hoạt lễ hội, giống như một vật kết nối giữa thế giới con người với các vị thần linh. Ngoài ra người Brâu còn có một loại nhạc cụ được tạo nên từ 5 – 7 ống lồ ô mang tên là Krông Pút – là một nhạc cụ thường được thiếu nữ Brâu sử dụng trong đám cưới, hát điệu dân ca hay ru con.

54. Dân tộc Ơ Đu

Dân số dân tộc Ơ Đu: 428 người

Dân tộc Ơ Đu là dân tộc thiểu số ít người nhất trong 54 dân tộc của Việt Nam. Người Ơ Đu hiện đang sinh sống chủ yếu tại Tương Dương, Nghệ An. Họ sử dụng ngôn ngữ thuộc chi Khơ Mí của ngữ tộc Môn – Khmer. Trong văn hóa người Ơ Đu chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi những nền văn hóa của dân tộc Thái hoặc Khơ Mú. Họ sinh sống chính bằng nương rẫy, săn bắn và hái lượm. Các loài vật như gà, lợn thường nuôi với mục đích để cúng bái, đãi khách khứa đến nhà.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Hôn nhân của người Ơ Đu có tục lệ không kết hôn trong cùng tộc, thường sẽ kết hôn với những người dân tộc khác. Họ cũng có tục ở rể, và sau một thời gian sinh sống chàng rể có thể đưa vợ về lại nhà mình để sinh sống. Người phụ nữ Ơ Đu cũng có tục sinh ngồi, và đứa bé sẽ được tính tuổi từ ngày có tiếng sấm trong năm, lúc này sẽ tính là đầy năm và ba mẹ lúc này sẽ làm lễ đặt tên.

Người Ơ Đu có rất nhiều ngày lễ hội trong năm như ngày Tết Nguyên Đán, ngày tết cơm mới,.. Nổi bật và lớn nhất là lễ đón tiếng sấm trong năm, vào ngày này người ta sẽ mở hội tế trời và làm thịt trâu bò, lợn, gà để ăn mừng.

Từ đồng bằng cho đến miền núi, hải đảo 54 dân tộc Việt Nam đều đoàn kết một lòng cùng nhau trải qua các giai đoạn lịch sử hào hùng gây dựng đất nước.

1. Dân tộc Kinh

Dân số dân tộc Kinh: 82.085.984 người – chiếm hơn 85% dân số Việt Nam

Địa phương sinh sống: Dân tộc Kinh là nhóm chiếm đại đa số ở nước Việt Nam. Người Kinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Ngôn ngữ chính sử dụng giao tiếp là Tiếng Việt và họ có phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà.

Nông nghiệp trồng lúa nước được xem là hoạt động sản xuất đặc trưng của dân tộc này. Một số tín ngưỡng đặc trưng của người Kinh như thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu,.. Trong đó người dân có thể lựa chọn theo các tôn giáo khác nhau như đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài, đạo Tin Lành,..

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong gia đình của người Kinh thì người chồng sẽ là trụ cột, người có tiếng nói và sẽ là chủ của gia đình. Con cái sau khi sinh ra sẽ theo họ của ba. Người con trai đầu sẽ có trách nhiệm thờ phụng ba mẹ, ông bà đã khuất và quán xuyến các việc trong gia đình.

Với nền văn hóa nghệ thuật rộng lớn từ văn học, các bộ môn nghệ thuật dân gian, lễ hội,.. đều mang đậm nét đặc trưng riêng. Và ở mỗi khu vực vùng miền người Kinh khác nhau trên nước Việt Nam ta đều sẽ mang những đặc điểm văn hóa có sự khác biệt nhất định. Người dân tộc Kinh đặc biệt có rất nhiều lễ hội được tổ chức quanh năm với rất nhiều nét độc đáo, tạo được dấu ấn riêng như là lễ hội chùa Hương, lễ hội Đền Hùng, lễ hội chùa Bái Đính,…

. “Cơm tẻ, nước chè” được biết như nét ẩm thực ăn uống cơ bản nhất của người dân tộc Kinh. Ở mỗi mâm cơm gia đình thì sẽ thường có các món canh cá, canh rau, sử dụng nhiều loại mắm (mắm cá, mắm tôm,..)

Cũng tùy thuộc theo từng vùng miền sinh sống mà người dân sẽ có những trang phục đặc trưng riêng và cũng có chịu ảnh hưởng của các dân tộc khác. Đặc biệt nhất là áo dài, áo tứ thân, áo bà ba,..

2. Dân tộc Tày

Dân số dân tộc Tày: 1.845.492 người

Địa phương sinh sống: Dân tộc Tày thường sinh sống ở vùng trung du miền núi phía Bắc (nhiều nhất ở Bản Hồ và Thanh Phú)

Ngôn ngữ: Tiếng Tày – Thái (hệ Thái – Ka Ðai). Chữ viết của người dân tộc Tày dựa trên bảng chữ cái La Tinh từ 1960, khá giống chữ viết của người Việt xưa.

Người dân tộc Tày sống bằng các ngành nghề như trồng lúa nước, trồng các loại cây công nghiệp như chè, hồi, thuốc lá. Tín ngưỡng của người dân tộc Tày chính là thờ Đa Thần, thờ cúng tổ tiên. Vì theo quan niệm của người dân tộc Tày thì “Vạn vật hữu linh” nên bất cứu mọi vật đều sẽ có linh hồn riêng. Một số người dân tộc Tày có tục rước chó đá về nhà để nhằm canh giữ và bảo vệ gia đình. Lá bưởi trong quan niệm của người Tày cũng được xem là loại lá có tác dụng xua đuổi vận xui, trừ tà.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Nền văn hóa của người Tày cũng rất phong phú, họ có rất nhiều truyện, thơ ca dân gian được lưu trữ quan nhiều thế hệ. Nổi bật phải kể đến là những làn điệu ca giao gieo duyên của các chàng trai cô gái người Tày – hát Leu thường thấy trong các dịp lễ hội, sinh hoạt văn hóa,.. Mỗi năm đều sẽ có rất nhiều lễ hội lớn mừng mùa màng như là hội Thanh Minh, hội tranh đầu pháo, hội Lồng Tồng,..

Điểm khác biệt của người Tày đó chính là tục lệ kết hôn trong cùng dòng họ. Hai bên sẽ có quyền tìm hiểu nhau nhưng có được phép kết hôn hay không sẽ còn tùy thuộc vào quyết định của gia đình.

Những món ăn đặc trưng của người Tày có thể kể đến như thịt trâu xào măng chua, canh cá lá chua, thịt lợn chua,..

Trang phục dân tộc Tày có vẻ khá đơn giản nhưng đều được thêu dệt với đường nét chi tiết tỉ mỉ mang đến nét đẹp rất giản dị cho người mực. Thường thì người dân tộc Tày sẽ đeo thêm nhiều đồ trang sức bạc như lắc tay, khuyên tai, kiềng, xà tích để làm điểm nhấn.

3. Dân tộc Thái

Dân số dân tộc Thái: 1.820.950 người.

Địa phương sinh sống: Người dân tộc Thái thường sinh sống ở các tỉnh Sơn La, Nghệ An, Lai Châu, Hòa Bình.

Ngôn ngữ: Tiếng Tày – Thái (hệ Thái – Ka Ðai).

Người dân tộc Thái thường sinh sống chủ yếu ở khu vực Tây Bắc Việt Nam với bao gồm người Thái trắng và dân tộc người Thái đen. Đây là một trong số rất ít dân tộc ở nước ta có hệ thống chữ viết riêng với một mối liên hệ với những mẫu từ ngữ hệ Sanscit có nguồn gốc từ miền Nam Trung Quốc.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Những câu chuyện cổ tích, thần thoại, ca dao, thơ,.. đều là những kho tàng văn học quý giá mà người dân tộc Thái đã gìn giữ suốt bao nhiêu thế hệ. Nổi tiếng nhất phải kể đến các tác phẩm Khun Lú Nàng Úa, Xống chụ xon xao. Trong biểu diễn văn hóa văn nghệ thì chúng ta cũng không thể bỏ qua được những điệu múa đặc trưng nổi tiếng của người dân tộc nơi đây với các điệu múa sạp, múa xòe vừa uyển chuyển lại rất lôi cuốn, hấp dẫn. Một số lễ hội nổi tiếng của người dân tộc Thái ở nước ta đó là lễ hội gội đầu, lễ hội hoa ban, lễ hội Kin Pang Then, lễ hội cầu mưa, lễ hội cầu mùa màng,..

Trước kia trong hôn nhân thì chú rể sẽ cần ở rể nhà gái vài năm đầu đến khi có con thì mới được trở về nhà phía chồng để sinh sống tuy nhiên ngày nay tục lệ này đã được bỏ đi. Cách để giúp người ngoài dễ dàng nhận biết xem cô gái người Thái có chồng hay chưa chính là dựa vào búi tóc trên đầu (chỉ có người phụ nữ đã lập gia đình mới để)

Ẩm thực của người Thái nước ta cũng có rất nhiều nét đặc trưng nổi bật với hương vị và cách chế biến rất độc đáo. Như là các món cá nước pỉnh pộp, măng chua, chẩm chéo, món cá hun khói pa giảng,..

4. Dân tộc Mường

Dân số dân tộc Mường: 1.452.059 người

Địa phương sinh sống: Người Mường tập trung đông ở các tỉnh Miền Bắc. Đặc biệt là tỉnh Hòa Bình và một số huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá.

Ngôn ngữ: Việt – Mường (hệ Nam Á)

Cây lúa nước là loại lương thực chính của người dân tộc Mường. Được xem là dân tộc có nét đặc trưng khá tương đồng với người Kinh nhưng người Mường cũng có rất nhiều phong tục riêng cho mình. Điển hình như là thờ Đa Thần, bên cạnh thờ phụng tổ tiên của mỗi gia đình thì còn có thờ tổ tiên của làng xã, thờ thành hoàng, thờ vua, các vị thần rừng thần núi,..

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong văn hóa nghệ thuật dân gian của người dân tộc Mường cũng có nhiều nét đẹp độc đáo như đa dạng thể loại thơ ca, truyện cổ, ví đúm, tục ngữ,.. Cồng, sáo trống, khèn lù, nhị là những nhạc cụ đặc sắc của người dân tộc này.

Một số lễ hội nổi tiếng của người Mường như là lễ hội chùa Hang, lễ hội chùa Kè, lễ hội Khuống mùa, lễ hội đền Bờ,.. Trong các dịp này mọi người sẽ tụ họp để tưởng nhớ công ơn của ông bà tổ tiên, gửi lời biết ơn và cầu mong may mắn, mùa màng bội thu. Sau đó người dân sẽ cùng nhau tham gia nhiều trò chơi thú vị như là ném còn, đánh cù, bắn nỏ,..

Nói đến ẩm thực thì không thể bỏ qua các món măng rừng, rau rừng, vịt cỏ, gạo nếp hay rượu cần của người dân tộc Mường. Nổi bật là những món thịt thui luộc, cơm lam, cá nướng, thịt trâu nấu lá lồm,..

Trong trang phục đặc trưng của người dân tộc Mường rất đa dạng từ áo xẻ ngực có thân ngắn, váy dài có cạp váy được dệt hoa văn độc đáo, có các loại trang sức là chuỗi hạt, dây bạc, vuốt của các loại mãnh thú,..

5. Dân tộc Khmer

Dân số dân tộc Khmer: 1.319.652 người

Dân tộc Khmer nằm trong nhóm 21 dân tộc nói ngôn ngữ Môn Khơ Me. Khu vực sinh sống sẽ nằm rải rác từ Tây Bắc, miền Trung Tây Nguyên cho đến một số nơi ở Nam Bộ.

Văn hóa của người Khmer cũng rất đa dạng với nghề canh tác chính là làm nương rẫy, họ sở hữu nhiều lễ hội và nét văn hóa cực kỳ độc đáo. Một số lễ hội nổi tiếng của người Khmer có thể kể đến như là lễ cúng Trăng, lễ cúng ông bà, ngày Tết Chôl Thnăm Thmây, ngày Vônabat,..

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Là dân tộc có hệ thống ngôn ngữ và chữ viết riêng cho mình kèm theo đó là một kho tằng những câu chuyện cổ, thần thoại, truyền thuyết và nghệ thuật sân khấu truyền thống rất nổi tiếng và lâu đời. Âm nhạc của dân tộc Khmer cũng chịu một phần ảnh hưởng của quốc gia Ấn Độ

Người Khmer hầu hết đều theo đạo Phật với hệ thống linh thần, linh thú mang đậm dấu ấn Bà La Môn. Trong đó tại khu vực Nam Bộ nơi mà người dân tộc Khmer sinh sống đông đảo nhất thì có tầm khoảng 600 ngôi chùa lớn nhỏ sở hữu lối kiến trúc lạ mắt đã được xây dựng cách đây vài thế kỷ trước. Chúng trở thành những di sản đặc sắc của ngời dân tộc Khmer, phải kể đến như: chùa Mẹt, chùa Âng, chùa Dơi, chùa Hang,..

Nói về trang phục thì chúng ta không thể bỏ qua được các bộ váy xàm pốt cho nữ giới hay xà rông chon am của người dân tộc Khmer.

6. Dân tộc Hmong (H’mông)

Dân số dân tộc Hmong: 1.393.547 người.

Địa phương sinh sống: Người H’Mông tập trung đông đảo ở các tỉnh vùng cao như Tuyên Quang, Sơn La, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An. đặc biệt là Lai Châu.

Ngôn ngữ: Mông (Mèo – Dao)

Nơi đầu tiên xuất hiện dân tộc người Hmong sinh sống tại nước ta chính là ở khu vực Mèo Vạc, Đồng Vân, Hà Giang. Đây được nhiều người Hmong lựa chọn và xem giống như là nguồn cội, quê hương của mình. Ngày nay thì người Hmong đã mở rộng khu vực sinh sống ra nhiều tỉnh thành ở phía Bắc nước ta như là Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Thanh Hóa, Nghệ An,..

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong tín ngưỡng thờ cúng của người Hmong thì ngoài thờ cúng tổ tiên mình thì họ còn thờ Đa Thần. Giống như tín ngưỡng của một số dân tộc thiểu số khác vẫn thực hiện. Họ cũng tin tưởng vào những gì liên quan đến chu kỳ sinh sống của đời người

Nét phong tục tập quán đặc sắc của người Hmong có thể kể đến chính là tục bắt vợ với khởi nguồn chính là từ việc tình cảm của cặp đôi trai gái bị gia đình ngăn cấm đã phải hẹn nhau đến một địa điểm hẹn ước để tiến hành bắt vợ. Tục bắt vợ ngày nay vẫn tuân thủ nhiều nghi thức, nguyên tắc và tập tục thời xưa và lưu ý đó là nếu với những tình yêu đơn phương từ chàng trai mà không có sự chấp thuận của phía cô gái thì sẽ ngay lập tức bị hủy bỏ và đền danh dự cho nhà gái, tổ chức ăn uống trong 7 ngày.

Một số lễ hội đặt trưng của người Hmong phải kể đến như là lễ nào sồng, lễ gầu tào, lễ ngô mới, lễ cúng nương, lễ cúng thần rừng,..

Nếu có dịp đến đây thì cũng đừng bỏ qua cơ hội thưởng thức những món ngon của người Hmong như là thắng cố, mèn mén, cơm lam, rượu táo mèo, rượu ngô Bắc Hà,..

7. Dân tộc Nùng

Dân số dân tộc Nùng: 1.083.298 người.

Người Nùng sinh sống chính bằng cách trồng trọt các loại lương thực chính như là ngô, lúa được trồng ở các sườn đồi. Bên cạnh đó họ cũng còn rất nhiều làn nghề thủ công mỹ nghệ liên quan đến đồ gốm, đan lát, rèn, dệt, nghề mộc,..

Đối với người dân tộc Nùng thì dù có là anh chị em họ hàng con em hay con chị thì sẽ đều dựa vào độ tuổi cao thấp để xác định vị trí xưng hô anh chị. Mọi người không hay gọi thẳng tên của người ông, người ba trong nhà mà sẽ gọi theo tên đứa con đầu, cháu đầu của họ.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong kho tàng văn hóa của người Nùng cũng đa dạng và phong phú không kém cạnh các dân tộc anh em khác, trong đó không thể không nhắc đến các làn điệu dân ca đậm đà bản sắc núi rừng. Một lễ hội nổi tiếng của người Nùng thu hút nhiều người quan tâm mỗi năm đó là hội xuống đồng (Lùng tùng). Tại đây người dân sẽ mặc các trang phục truyền thống với áo 5 thân, quần ống rộng dài đến mắt cá chân được nhuộm màu chàm. Với người phụ nữ Nùng sẽ có 1 chiếc tạp dề ở trước bụng. Tùy thuộc vào nhóm dân tộc Nùng khác nhau mà cách đội khăn và họa tiết trang trí khăn sẽ có sự khác biệt đôi chút

8. Dân tộc Dao

Dân số dân tộc Dao: 891.151 người

Dân tộc Dao cũng được chia nhỏ thành từng nhóm khác nhau khá đa dạng. Ví dụ như: Dao Đỏ, Dao Lô Gang, Dao Quần Trắng,.. Mỗi nhóm thì lại sống ở các khu vực khác nhau và có những trang phục, văn hóa rất riêng.

Cùng chung sống trên đất nước Việt Nam cũng góp phần lớn đến công cuộc giúp cho bức tranh bản sắc văn hóa 54 dân tộc anh em trở nên đa dạng, phong phú hơn đó chính là dân tộc Dao. Người Dao thường sinh sống đông ở những tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc. Với nghề nương rẫy, thổ canh làm ruộng là chính, những sản phẩm nông nghiệp người dân tộc Dao trồng trọt thường là lúa, ngô, các loại cây rau như khoai, bầu, bí,.. Ngành nghề trồng bông để dệt vải ở một số bản làng người Dao cũng rất phổ biến. Ngoài ra các nghề rèn, thợ bạc cũng là những điểm mạnh của người Dao.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Họ có một nền văn hóa ngôn ngữ, chữ viết và kho tàng thơ ca, mỹ thuật, dân vũ,.. cực kỳ tiêu biểu. Tín ngưỡng của người Dao chính là Đa thần nguyên thủy, họ tin tưởng rằng trong bất cứ vật gì cũng sẽ đều có 1 phần linh hồn trong đó và nó cũng thể hiện rõ trong những nghi lễ mà họ thực hiện hằng năm. Nổi bật như là lễ Tết Nhảy, lễ Cấp Sắc.

Đặc biệt người Dao có một nền kiến thức y học rất phong phú vì sống trên khu vực núi rừng nên khi ốm đau người dân chủ có thể tự chữa trị thông qua hái lá thuốc mọc tự nhiên trong rừng. Từ đó tích lũy được rất nhiều bài thuốc hay, quý chữa được nhiều bệnh khác nhau như là ngứa, lở loét, đau nhứt xương, đau đường ruột,..

Ta có thể dễ dàng nhận biết những người dân tộc Dao dựa theo bộ trang phục rực rỡ sắc màu, chủ đạo là tông đỏ với áo dài, yếm, váy,.. Tất cả đều được thêu hoa văn chi tiết, cẩn thận.

9. Dân tộc Hoa

Dân số dân tộc Hoa: 749.466 người

Người dân tộc Hoa có nét văn hóa sinh sống trong các gia đình lớn khi một gia đình có thể sẽ từ 4 – 5 đời với đông đúc đến vài chục người cùng sinh sống với nhau. Hiện nay thì các gia đình người Hoa đã dần tách ra sống thành những hộ gia đình nhỏ nhưng những họ hàng vẫn sống rất gần gũi chứ không quá xa cách.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Thường hôn nhân của người Hoa sẽ do gia đình quyết định, họ chú trọng rất nhiều đến sự đồng đều về hoàn cảnh kinh tế cũng như địa vị xã hội trong quá trình chọn lựa gia đình kết thông gia – hay được gọi là “môn đăng hộ đối”

Người dân tộc Hoa cũng có tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên và bên cạnh đó cũng thờ rất nhiều vị thần, Phật khác như là thần bếp, thổ địa, thần tài, quan công, Bà Thiên Hậu, Nam Hải Quan Âm,.. Các chùa miếu thờ cúng cũng là nơi diễn ra nhiều lễ hội, các hoạt động sinh hoạt cộng đồng của người Hoa

Nói đến văn hóa nghệ thuật thì dân tộc Hoa cực kỳ phong phú từ ca hát, múa quyền, múa sư tử, chơi đánh cờ,.. Nổi bật là ca kịch và nhiều loại dụng cụ tạo ra âm thanh như sáo, lồ lô, nhị, não bạt, đàn tỳ bà,..

10. Dân tộc Gia Rai

Dân số dân tộc Gia Rai: 513.930 người

Một dân tộc sinh sống tại vùng đất Tây Nguyên mà chúng ta không thể không nhắc đến chính là Gia Rai. Nhắc đến người Gia Rai thì chúng ta cũng sẽ nghĩ ngay đến những ngôi nhà Rông – nó như biểu tượng của cộng đồng và văn hóa của người dân tộc này.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người dân tộc Gia Rai có rất nhiều lễ hội đặc sắc khác nhau như là lễ cầu an, lễ cầu mưa, lễ cúng nhà Rông mới, lễ bỏ mã,..

Trong trang phục của người nam Gia Rai sẽ đóng khố, mặc áo đen cộc tay hở nách với đường viền trang phục sẽ sử dụng các đường chỉ màu chị dọc 2 sườn. Còn trang phục nữ Gia Rai sẽ là những loại áo cánh ngắn bó sát vào thân, có tay dài và váy chàm có viền hoa văn chạy quanh phần gấu. Ở cạp sẽ có tua chỉ màu.. Trên tất cả trang phục đều có họa tiết hoa văn rất độc đáo

Ngoài nhà Rông thì người Gia Rai còn nổi tiếng bởi rượu cần, đàn T’rưng, đàn K’lông pút, cây nêu,..

11. Dân tộc Ê Đê

Dân số dân tộc Ê Đê: 398.671 người

Người dân tộc Ê Đê sinh sống chủ yếu đông đảo ở những vùng cao nguyên như là Đak Lak, Dak Nông,.. tại đây người dân sẽ sinh sống theo buôn làng. Họ sử dụng ngành nghề chính là canh tác trồng nương rẫy.

Bến nước được biết đến như là bản sắc của người Ê Đê, nó được xem là nhu cầu cơ bản và là nơi mà người dân cần tìm kiếm và có được trước khi quyết định lập buôn sinh sống lâu dài. Người chủ của bến nước sẽ có nhiệm vụ bảo vệ lấy nguồn nước ở đây với tính gia truyền qua nhiều thế hệ, tuy nhiên tất cả đều là nữ thuộc họ mẹ (theo chế độ mẫu hệ).

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Vì tuân theo chế độ mẫu hệ nên hầu như trong bất kỳ lễ hội nào thì người phụ nữ trong gia đình đều sẽ là người được mời uống rượu trước rồi sau đó mới đến nam giới. Còn với chuyện làm rẫy thì người phụ nữ chủ gia đình sẽ có nhiệm vụ đốt rẫy, gieo hạt, chăm sóc và thu hoạch đưa lúa về nhà. Trong hôn nhân thì người chủ động tìm kiếm bạn đời cũng sẽ là nữ giới. Người được thừa kế tài sản trong gia đình từ mẹ, bà của mình sau khi họ qua đời sẽ là đứa con gái út.

Bên cạnh cồng chiêng như một nét đẹp chung cho nhiều dân tộc vùng Tây Nguyên thì người Ê Đê còn có một hình thức văn hóa nghệ thuật rất độc đáo khác là kể chuyện thông qua ngôn ngữ vừa kể vừa hát (Klei khan), đồng thời đó cũng là rất nhiều câu chuyện sử thi đặc sắc đã lưu truyền qua nhiều thời gian, các lớp thế hệ như Dăm San, Dăm Ji, Dăm Tiông, Dăm Trao Dăm Rao, Sing Nhã, Khing Jú,..

12. Dân tộc Ba Na

Dân số dân tộc Ba Na: 286.910 người

Người dân tộc Ba Na thường có thói quen sinh sống gần những khu vực gần với núi rừng thiên nhiên sông suối. Ngoài làm ruộng nước thì người Ba Na còn làm nhiều ngành nghề thủ công như là đan lát, dệt, gốm, rèn,. Trong đó nổi bật nhất chính là dệt thổ cẩm. Tất cả sản phẩm dệt thổ cẩm đều được thực hiện bằng tay với họa tiết tinh tế, có nhiều gam màu tạo ấn tượng như đỏ, đen, trắng,.. Mỗi sản phẩm đều phản ánh quan niệm tâm linh vũ trụ, triết lý âm dương trời đất.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Ở mỗi ngôi nhà người Ba Na đều sẽ có trồng một cây cúng thường nằm trước nhà đối diện với phía cổng chính. Mỗi dịp đến lễ hội, thờ cúng, đám cưới, đám tang,.. trong nhà đều sẽ thực hiện trước các cây cúng này nhằm giao tiếp với tổ tiên, thần linh

Nền văn hóa dân gian của người dân tộc Ba Na cũng rất đặc sắc phải kể đến trường ca, truyện cổ, múa dân gian và nhiều loại nhạc cụ dân tộc độc đáo, thú vị. Người Ba Na cũng có rất nhiều lễ hội đặc sắc phải kể đến như là lễ tạ ơn ba mẹ, lễ đâm trâu, lễ bỏ mả, lễ tạ ơn thần lúa,.. Đây là dịp người dân cảm tạ công ơn đất trời đã giúp cho mùa màng bội thu và cũng còn là dịp người dân tụ họp vui chơi, cùng nhau đánh cồng chiêng, uống rượu cần,..

13. Dân tộc Xơ Đăng

Dân số dân tộc Xơ Đăng: 212.277 người

Người Xơ Đăng sử dụng ngôn ngữ là tiếng Xơ thuộc loại ngôn ngữ Môn – Khơ me. Họ là những người sinh sống lâu năm tại khu vực Trường Sơn, Tây Nguyên và những khu vực lân cận với Quảng Nam, Quảng Ngãi. Người dân Xơ Đăng chủ yếu làm rẫy trồng lúa, ngoài ra còn có trồng trọt một số loại ngô, sắn, chuối, mía, thuốc lá,.. Người Xơ Đăng cũng có tín ngưỡng thờ Đa Thần, họ có rất nhiều nghi thức cúng bái để giao tiếp với các lực lượng siêu nhiên nhằm mục đích cầu bình an, cầu mùa màng và mong tránh khỏi các xui xẻo cho cộng đồng người dân.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Tùy thuộc vào từng khu vực sinh sống mà phong tục người Xơ Đăng từng vùng sẽ nhiều đổi khác. Tuy nhiên họ vẫn duy trì chế độ nhiều thế hệ cùng sinh sống với nhau trong một ngôi nhà sàn dài. Hôn nhận của người Xơ Đăng rất độc đáo, chú rể và cô dâu sẽ thay phiên ăn chung 1 cái đùi gà, ăn chung 1 mâm cơm và đưa rượu cho nhau cùng uống để ngụ ý về sự gắn kết giữa 2 bên. Thông thường trong quá trình kết hôn thì họ sẽ không ở cố định về phía nhà trai hay nhà gái mà sẽ có sự thay đổi luân phiên mấy năm một lần. Đến khi cha mẹ qua đời thì mới cố định.

Người Xơ Đăng gắn liền với rất nhiều làn điệu dân ca, điệu hát và những điệu múa cùng với những loại nhạc cụ khác nhau được sử dụng trong các dịp lễ hội. Kho tàng truyện cổ của người Xơ Đăng cũng rất đa dạng và độc đáo bạn sẽ có dịp nghe các già làng kể chuyện khi được đến khu vực người Xơ Đăng sinh sống.

Với phần trang phục truyền thống có tông màu chủ đạo là đen, nam sẽ đóng khố và cởi trần, chỉ những dịp lễ đặc biệt thì họ mới quấn thêm một tấm vải chéo trên ngực. Còn nữ sẽ có váy, áo cụt tay và một tấm khăn vai được dệt từ những sợi bông có màu sắc đa dạng nhưng vẫn có chủ đạo là đen. Trang phục của người Xơ Đăng khá giống với đông đảo các dân tộc khác sinh sống ở Tây Nguyên nhưng có điểm khác biệt đó chính là ở hoạt tiết hoa văn trên trang phục.

14. Dân tộc Sán Chay

Dân số dân tộc Sán Chay: 201.398 người

Nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống sản xuất của người dân tộc Sán Chay. Họ thường sinh sống tập trung thành làng để tạo tính đoàn kết gắn bó với nhau. Người dân tộc Sán Chay chắc chắn quen thuộc điệu Múa Tắc Xình, một trong những di sản văn hóa cần được bảo tồn. Ngoài ra, còn có lễ hội Cầu Mùa khá độc đáo của người dân tộc Tắc Xình.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Đối với người dân tộc Sán Chay sẽ được chia thành nhiều họ khác nhau và với mỗi họ sẽ có một điểm khác biệt nhất định, họ sẽ có một thần linh thờ cúng nhất định. Điểm độc đáo trong hôn nhân của người Sán Chay đó là tuy là nhà trai sẽ tổ chức đám cưới cho con nhưng sau khi kết hôn thì cô dâu sẽ trở về sinh sống với ba mẹ đẻ và chỉ thỉnh thoảng mới về lại nhà chồng. Đến khi có thai thì lúc này cả hai mới thật sự chuyển về nhà chồng để ở hẳn

Trong văn hóa nghệ thuật dân gian của người Sán Chay cũng có rất nhiều thơ, ca, ngạn ngữ cổ. Nổi bật nhất là sình ca – một hình thức diễn xướng dân gian đặc sắc của người dân tộc Sán Chay. Trong mỗi dịp lễ hội thì người Sán Chay sẽ sử dụng nhiều nhạc cụ như thanh la, chuông, kèn, não bạt,.. đi kèm đó là các điệu múa trống, múa chim gâu, múa đâm cá, múa xúc tép,..

Trang phục của người Sán Chay thông thường khá giống với người dân tộc Tày hoặc là người Kinh. Người phụ nữ Sán Chày trong đời thường sẽ có một chiếc dây đeo bao dùng thay thế cho thắc lưng và đến các dịp lễ tết thì họ sẽ thắt từ 2 – 3 chiếc thắt lưng vải với nhiều màu sắc khác nhau để làm điểm nhấn.

15. Dân tộc Cờ Ho

Dân số dân tộc Cờ Ho: 200.800 người

Người dân tộc Cờ Ho hay còn biết đến là Cơ Ho, K’ho,.. là người dân tộc sinh sống chủ yếu ở khu vực phía Nam Tây Nguyên nước ta. Họ thường sống ở các vùng núi cao, tách biệt nhiều với các dân tộc khác nên gần như vẫn giữ được rất nhiều nét đẹp văn hóa riêng của dân tộc mình. Người Cờ Ho chủ yếu sản xuất nông nghiệp và lâm thổ sản là chính. Là dân tộc cũng có tín ngưỡng Đa Thần khi cũng tin tưởng rất nhiều vào sự tồn tại của những năng lực siêu nhiên từ thần Mặt Trời, thần Núi, thần Mặt Trăng, thần Đất,.. vào những dịp sự kiện quan trọng trong buôn làng thì người dân sẽ tổ chức các lễ cúng bái để nhằm liên hệ với thần linh nhờ giúp đỡ.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong đời sống xã hội thì hiện tại người Cờ Ho vẫn tuân theo chế độ mẫu hệ, người chủ gia đình vẫn là người phụ nữ. Sau khi kết hôn thì người đàn ông sẽ về nhà vợ sinh sống, con cái trong nhà sẽ theo họ của mẹ. Đặc biệt là người Cờ Ho rất cấm kỵ việc kết hôn trong cùng dòng họ với nhau. Hôn nhân của người dân tộc Cờ Ho luôn có sự tôn trọng, ưng thuận của hai bên chứ không có ý ép buộc.

Trước kia trong ẩm thực thì người Cờ Ho chủ yếu nấu trong các ống nứa nhưng sau này đã sử dụng nhiều loại dụng cụ bằng đất nung, đồng,.. Nước uống sẽ được người dân đựng trong những quả bầu khô hay ghè. Thức ăn đều được chế biến để thuận tiện cho hoạt động bốc.

Văn học nghệ thuật dân gian của người Cờ Ho cũng cực kỳ đặc sắc. Họ có rất nhiều thơ ca trữ tình, hơn 400 câu truyện cổ tính, nhiều trường ca, vũ khúc thường dùng cho các dịp lễ hội. Nhạc cụ cũng có nhiều loại như là cồng kiêng, đàn ống tre, kèn ống bầu,.. Người Cờ Ho cũng có 1 dịp Tết lớn kéo dài từ 7 – 10 ngày sau khi mà họ đã thu hoạch mùa màng xong mang ý nghĩa đón lúa mới về nhà. Dịp này sẽ được tổ chức ngoài trời và người dân sẽ thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để tổ chức lễ, chia thịt cho các gia đình khác trong buôn.

16. Dân tộc Sán Dìu

Dân số dân tộc Sán Dìu: 183.004 người

Người Sán Dìu sử dụng ngôn ngữ Sán Dìu thuộc nhóm hệ Hán và hiện ngôn ngữ này vẫn còn được gìn giữ, sử dụng trong giao tiếp sinh hoạt ở các gia đình nhiều thế hệ sinh sống, các thầy thuốc, thầy cúng,.. Tuy là dân tộc ít người có nhiều họ khác nhau nhưng khi người dân tộc Sán Dìu gặp và nhận ra được nhau thì sẽ sử dụng câu chào nhau “San Déo loỏng si” – ý chỉ người Sán Dìu ít ỏi nên cần yêu thương và đùm bọc lẫn nhau.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Một điểm đặc biệt không thể không nhắc đến trong văn hóa đặc trưng của người Sán Dìu chính là ở nền ẩm thực độc đáo mà người dân tộc này sở hữu. Họ chế biến các món ăn khá cầu kỳ và có sử dụng rất nhiều loại gia vị khác nhau như là địa liền, gừng, tỏi,.. Tất cả thức ăn người Sán Dìu sử dụng thì đều phải nấu nóng để vừa ăn vừa thổi chứ không được để nguội lạnh. Họ cũng có rất nhiều loại bánh khác nhau như là bánh chưng gù, bánh chưng hình ống, bánh nhân điền, bánh tro,.. Tất cả đều sử dụng trong các dịp lễ tết, cưới hỏi. Nhưng riêng bánh nhân điền và bánh dày chỉ dùng chủ yếu trong các đám ma

Vào những dịp thông thường thì người nam giới Sán Dìu sẽ mặc quần đùi cộc màu tối hoặc quần dài màu tối có cạp chun, 2 túi. Áo được may theo kiểu bà ba mặc dài ngang đùi có 2 túi. Còn nữ giới sẽ luôn mặc 2 áo theo cặp với cáo trong luôn sáng màu hơn áo ngoài, phía áo ngoài sẽ may kiểu 3 vạt, dài quá gối và có đeo yếm, đội khăn đen hình mỏ quạ

Còn vào những ngày lễ hội thì có thể mặc các trang phục ngày thường nhưng mới hơn, đi guốc mộc và đội khăn gấm hoặc nhung. Trang sức của nữ giới Sán Dìu không nhiều như những dân tộc khác chỉ có khuyên tai, nhẫn bạc, vòng tay bằng bạc và một săn su quả đào đựng trầu.

17. Dân tộc Chăm

Dân số dân tộc Chăm: 178.948 người

Dân tộc Chăm nằm trong danh sách 5 dân tộc nói ngôn ngữ Nam Đào, bao gồm: Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru, Raglai và người Chăm. Họ sống chủ yếu ở Tây Nguyên với nét văn hóa truyền thống nổi bật nhất là mẫu hệ.

Người Chăm sinh sống tập trung chủ yếu ở những khu vực duyên hải miền Trung nước ta. Nổi bật là ở tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận. Người Chăm sử dụng chữ quốc ngữ là kiểu chữ Phạn Ả Rập đã du nhập vào Chiêm Thành từ những năm ở thế kỷ thứ II nhưng đã có một số thay đổi nhất định. Họ sinh sống chủ yếu nhờ những ngành nghề liên quan đến chăn nuôi, làm gốm và dệt.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Những nét phong tục tập quán của người Chăm mang nhiều dấu ấn của Hồi giáo và Bà la môn từ các lễ cúng thần linh, nghi thức cưới xin, người chết thì đem thiêu,.. Họ cũng là dân tộc mang tính mẫu hệ bản địa khi sau khi mất thì sẽ có nghi lễ nhập Kút nhằm đưa xương cốt các người cùng họ mẹ về cùng một nơi tại nghĩa trang quê mẹ.

Người Chăm cổ đã để lại rất nhiều di sản quý giá nổi bật nhất phải kể đến những ngôi đền bằng gạch nung mang phong cách tháp Ấn Độ độc đáo và các tác phẩm điêu khác đẹp tuyệt mỹ. Những phương thức nung cũng như cách xây dựng nên những ngôi đền này vẫn còn là điều bí ẩn. Các vị thần sẽ được người Chăm thờ phụng trong những ngôi đền này. Phải kể đến như là bộ 3 vị thần lớn của Ấn Độ Brahma (thần sáng tạo), Vishnu (thần bảo vệ), Shiva (thần hủy diệt), thần Linga và thần Yoni tượng trưng cho sinh sản,..

Người dân tộc Chăm cũng có rất nhiều nghi lễ, lễ hội đặc sắc như là lễ cúng nhà mới, lễ trưởng thành, lễ nhập Kút, lễ Ramuwan, lễ hội Kate để tưởng nhớ các vị vua và thần Po Nugar, lễ Riji Praung,..

Người dân tộc Chăm có rất nhiều món ăn đặc trưng riêng cho dân tộc mình. Như là món canh bồi được nấu bằng nhiều loại rau băm nhỏ và trộn với gạo đã được giã nhuyễn, món Ga Pội giống như là cà ri nhưng được chế biến thành dạng cơm rang. Món Pài Pa Ghênh của người Chăm là kiểu gạo xay nhuyễn thành thính nấu chung với nhiều loại rau củ, khi chín sẽ cho thêm mắm bò hóc của người Khmer và tạo thành món ăn cùng bún hoặc cơm,.. Hay là các món tung lò mò, bánh tổ chim, bánh gang tay,..

18. Dân tộc Hrê

Dân số dân tộc Hrê: 149.460 người

Người dân tộc Hrê được biết đến với nhiều tên gọi khác như là Chom, Chăm rê, Kre,.. họ sinh sống chủ yếu ở khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Ngôn ngữ người Hrê sử dụng thuộc nhóm ngôn ngữ của Môn – Khmer, khá gần với ngôn ngữ của dân tộc Ba Na và Xơ Đăng. Người Hrê sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, nuôi heo và các loại gia cầm. Họ cũng làm nhiều nghề thủ công đan lát, dệt thổ cẩm và rèn.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người Hrê cũng rất yêu thích văn hóa nghệ thuật khi từ xa xưa họ đã biết sáng tác thơ ca, mê đàn hát và sở hữu rất nhiều loại nhạc cụ độc đáo có thể kể đến như là đàn Brook, sáo ling la, ống tiêu la lía, ching ka la, khèn ra vai,.. 2 làn điệu dân ca quen thuộc và nổi tiếng của người dân tộc Hrê đó là Ka choi và Ka lêu

Vì là dân tộc rất yêu quý, coi trọng cộng đồng dân tộc của mình nên khi có các lễ hội diễn ra thì hầu như mỗi gia đình đều sẽ cử người tham gia góp công sức thực hiện. Điển hình nhất chính là lễ đâm trâu, các lễ cúng bái trong làng.

Trang phục truyền thống của người Hrê đối với nam giới sẽ đóng khố, ở trần hoặc mặc một áo cánh ngắn đến phần thắt lưng. Nữ giới sẽ mặc loại váy 2 tầng, áo 5 thân và trên đầu sẽ có trùm khăn. Tuy là ngày nay nhiều gia đình người dân tộc Hrê đã dần ăn mặc như người dân tộc Kinh. Tuy nhiên phong tục quấn khắn, trùm khăn của họ thì vẫn được gìn giữ.

19. Dân tộc Raglai

Dân số dân tộc Raglai: 146.613 người

Người Raglai hay còn gọi với nhiều tên khác như là Ra Glai, Ra Giây, Rang ngok,.. được biết là một nhánh của người dân tộc Chăm. Họ sinh sống chủ yếu ở khu vực tỉnh Ninh Thuận và Khánh Sơn, Khánh Hòa nước ta. Ngôn ngữ sử dụng của người Raglai là thuộc hệ ngôn ngữ chi Maylay – Polynesia của hệ Nam Đảo.

Người Raglai quan niệm khu vực thung lũng là lối đi của ma quỷ, sống lưng của những đồi núi là nơi mà các vị thần làm đường đi lại, do đó chit có lưng chừng núi mới là nơi mà con người có thể ở. Họ sẽ sinh sống ở những khu đất cao, bằng phẳng, gần các sông ngòi để có được nguồn nước sinh hoạt cũng như dùng cho các hoạt động sản xuất. Người dân tộc Raglai sẽ sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa và ngô, khoai, củ quả. Những ngành nghề làm gốm, đan lát, rèn,.. vẫn có tuy nhiên còn khá thô sơ, chỉ để đảm bảo phục vụ sinh hoạt và sản xuất.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Họ cũng nằm trong số các dân tộc sống theo quan niệm mẫu hệ. Ngoài quyền hạn của người mẹ trong nhà thì tiếng nói của cậu cũng khá quan trọng. Các tục con gái bắt chồng vẫn được giữ lại, khi để mắt đến chàng trai nhà nào thì sẽ nói với cha mẹ để lo lễ cưới chồng. Con cái khi sinh ra sẽ theo họ mẹ và con gái út sẽ là người được thừa hưởng tài sản. Người này cũng có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ khi về già. Tuy nhiên khi lấy vợ là người dân tộc khác thì lúc này gia đình đó sẽ sống theo chế độ phụ hệ.

Trong văn hóa nghệ thuật dân gian người Raglai có rấy nhiều truyện thần thoại, trường ca, truyện cổ tích có tính nghệ thuật cao, mang giá trị lịch sử cũng như tính giáo dục. Cứ sau mỗi vụ thu hoạc thì cả làng sẽ cùng nhau tụ họp để cúng Giàng và ăn mừng lúa mới. Trong các dịp sinh hoạt, lễ lộc thì người Raglai sẽ thường có tổ chức các hình thức hát đối đáp, sử dụng những nhạc cụ dân tộc để góp vui như là đàn đá, đàn salaken, kèn môi, đàn bầu, mã la,..

20. Dân tộc Mnông

Dân số dân tộc Mnông: 127.334 người

Đây được biết là dân tộc đã sinh sống lâu đời tại miền Trung Tây Nguyên Việt Nam. Người Mnông chủ yếu sống bằng nghề trồng nương rẫy với phương pháp đao canh hỏa chủng. Là phương pháp phát quang, đốt và chọc lỗ để tra hạt trồng cây. Lúa được trồng theo phương pháp đao canh thủy nậu. Là hình thức gieo hạt trồng trên đầm lầy và sử dụng trâu cày để nhão đất chứ không cấy mạ.

Bên cạnh những ngành nghề đan lát, rèn nông cụ, làm gốm thì nghề săn bắn – thuần dưỡng voi rừng của người dân tộc Mnông ở khu vực Buôn Đôn cực kỳ nổi tiếng. Tuy nhiên ngày nay số lượng voi săn bắn đã được giảm đi nhiều.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Thường người dân Mnông sẽ sinh sống thành các bon hay uôn và hầu hết các gia đình trong làng đều là những nhà có quan hệ huyết thống với nhau tập trung sinh sống. Người Mnông vẫn sống theo chế độ mẫu hệ với người phụ nữ chủ động trong hôn nhân hơn, sau khi kết hôn sẽ sinh sống ở nhà gái và con cái sinh ra sẽ theo họ mẹ. Tuy nhiên tùy thuộc và một số địa phương thì chế độ này đã dần tan rã.

Điểm đặc biệt trong hôn nhân của người Mnông đó là họ rất coi trọng chế độ 1 vợ 1 chồng, trong luật tục của người dân tộc Mnông thì những người loạn luân hay ngoại tình sẽ bị phạt tội rất nặng.

Vì chưa có hệ thống chữ viết nên chỉ có hệ thống văn chương truyền miệng qua các thế hệ là chủ yếu. Có rất nhiều truyện cổ, sử thi, ca dao tục ngữ truyền miệng được người dân lưu giữ qua khoảng thời gian dài nhiều thế hệ. Họ cũng có một hệ thống nhạc cụ đặc sắc như là kèn bầu, cồng chiêng, kèn môi, đàn độc huyền, sáo dọc,..

21. Dân tộc X’Tiêng

Dân số dân tộc X’Tiêng: 100.752 người

Người dân tộc X’Tiêng đã cứ trú lâu đời ở khu vực tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng nước ta, và hiện nay đã và đang sinh sống xen kẽ với rất nhiều dân tộc khác như là Kinh, Chăm, Mnông, Khmer ở các tỉnh phía Nam. Tùy theo khu vực sinh sống mà người X’Tiêng sẽ có thể làm ruộng nước hoặc làm nương rẫy để sinh sống.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong phong tục hôn nhân thì người X’Tiêng sẽ kết hôn khá sớm, con trai thường tầm từ 19 đến 20 tuổi còn nữ sẽ từ 15 – 17 tuổi. Tùy thuộc từng khu vực người dân tộc X’Tiêng khác nhau mà sẽ có các tập tục sống tại nhà gái hay nhà trai. Tuy nhiên họ kết hôn khác dòng họ.

Người X’Tiêng rất yêu thích âm nhạc và loại nhạc cụ yêu thích nhất của họ chính là bộ chiêng 6 cái, khèn bầu và cồng. Họ sử dụng chiêng để thể hiện tình cảm, giải quyết xích mích giữa các gia đình với nhau. Chiêng ngoại trừ lễ đâm trâu thì không được gõ bên ngoài nhà.

Trang phục truyền thống của người X’Tiêng khá đơn giản khi người nam sẽ đóng khố và nữ giới sẽ mặc váy. Họ để tóc dài đẻ búi ra sau gáy, có đeo hoa tai bằng các đồ trang sức gỗ, ngà voi và cả nam hay nữ đều thích đeo các loại vòng trang sức. Họ còn xăm mình và xăm mặt bằng các hoa văn đơn giản.

22. Dân tộc Bru Vân Kiều

Dân số dân tộc Bru Vân Kiều: 94.598 người

Đây là dân tộc sử dụng ngôn ngữ của người Bru, thuộc ngôn ngữ chi Cơ Tu của ngữ tộc Môn – Khmer. Bru Vân Kiều được biết đến là 1 trong số các dân tộc thiểu số của Việt Nam. Ban đầu người Bru Vân Kiều sinh sống tại vùng trung Lào nhưng sau nhiều biến động của lịch sử nên hiện nay có một số đông sinh sống ở những khu vực miền núi các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, một số đi đến tây bắc sang Thái Lan.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong hôn nhân thì người Bru Vân Kiều sẽ chịu nhiều quyết định vởi người cậu trong nhà. Khi đám cưới người Bru Vân Kiều có tập tục nhà trai sẽ trao lại cho nhà gái 1 thanh kiếm. Sau khi rước dâu về sẽ phải trải qua rất nhiều nghi thức phức tạp khác nhau.

Ngoài kiến trúc nhà sàn nhỏ thường xây dựng dọc theo con suối hay xếp thành vòng tròn để quây quần bên nhau rất độc đáo thì âm nhạc cũng là yếu tố đặc biệt của người Bru Vân Kiều. Họ sở hữu rất nhiều loại nhạc cụ khác nhau như là chiêng núm, trống, thanh la, nhiều loại kèn (kèn ta riềm, kèn amam,..), các loại đàn (đàn pơ kua, đàn achung,..) và những làn điệu dân ca như sim hay chà chấp được biết đến là những nét đẹp văn hóa nghệ thuật nổi tiếng của người dân tộc Bru Vân Kiều

Lễ hội nổi tiếng nhất của người Bru Vân Kiều phải kể đến lễ hội đập trống diễn ra vào ngày 16 tháng giêng âm lịch hàng năm nhằm mục đích mừng trăng mới.

23. Dân tộc Thổ

Dân số dân tộc Thổ: 91.430 người

Đồng bào dân tộc Thổ thuộc nhóm dân tộc Việt – Mường thường cư trú nhiều ở khu vực phía tây Nghệ An. Ngôn ngữ của người Thổ thuộc hệ ngôn ngữ chi Việt trong hệ Nam Á. Tùy theo từng nhóm dân tộc Thổ khác nhau mà sẽ có phần ngôn ngữ, ngữ âm có đôi chút khác biệt.

Người Thổ sẽ sống bằng nghề làm rẫy, trồng lúa, trồng cây lá gai là chính. Trong đó lá gai khi thu hoạch có thể dùng để đan lát thành nhiều loại vật liệu sử dụng như là lưới bắt cá, lưới săn thú, võng, túi đeo.. Trước kia họ có ngành nghề dệt vải nhưng sau do điều kiện canh tác và có giao lưu với nhiều nền văn hóa của các dân tộc khác nên đã ngày càng mai một dần đi.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người dân tộc Thổ có tục “ngủ mái” đó là trong những dịp lễ hội thì nam nữ có thể nằm tâm tình với nhau để từ đó chọn bạn trăm năm làm vợ chồng. Tuy nhiên các hoạt động thiếu đúng đắn sẽ không được cho phép vì luật lệ người Thổ rất nghiêm minh trong vấn đề này. Trước khi kết hôn thì người nhà trai sẽ cần phải đến làm việc cho nhà vợ tương lai để kiểm tra sức khỏe và lễ cưới nếu diễn ra thì phía nhà trai cũng cần bỏ ra rất nhiều tiền của.

Trước kia thì người dân tộc Thổ có rất nhiều ca dao tục ngữ, truyện cổ, đồng dao, điệu hát đặc sắt nhưng song theo thời gian thì chúng đã dần bị mất mát nhiều. Hiện nay vào mỗi dịp lễ hội thì các đôi trai gái người Thổ sẽ cùng nhau tham gia đối hát và uống rượu cần, múa hát dưới tiếng cồng chiêng.

24. Dân tộc Khơ Mú

Dân số dân tộc Khơ Mú: 90.612 người

Người Khơ Mú hay còn biết đến là người Xá Cẩu, Tày Hạy, Tềnh, Mứn Xen,.. Họ sinh sống nhiều tại khu vực các tỉnh Nghệ An, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hóa, Yên Bái,.. Người Khơ Mú sống bằng nghề nương rẫy là chính, trong đó các loại cây trồng phổ biến là lúa, ngô, sắn, khoai,.. Họ cũng có nuôi các gia súc và gia cầm tuy nhiên chỉ để phục vụ những dịp lễ lộc hay tiếp khách.

Họ mà người Khơ Mú sử dụng sẽ thường có liên quan đến tên của các loài thú rừng, chim hay một loại cây nào đó vì họ xem đây như là tổ tiên ban đầu của mình. Và mỗi dòng họ lại có một huyền thoại để kể về lai lịch tổ tiên riêng, rất đặc sắc.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong hôn nhân của người Khơ Mú khá bình đẳng và họ cũng sống rất chung thủy với nhau. Sau khi kết hôn thì chú rể sẽ ở nhà gái 1 năm sau đó mới đưa vợ về nhà mình. Và trong giai đoạn ở nhà vợ nếu sinh con thì con sẽ mang họ mẹ, còn khi đã về nhà chồng thì khi sinh con sẽ mang họ cha.

Tuy người dân tộc Khơ Mú khá nghèo về vật chất nhưng đời sống tinh thần của họ lại rất phong phú và dồi dào. Họ rất tin vào những linh hồn và các loại ma như là ma trời, ma đất, ma mương, ma rừng,.. Người dân sẽ có các nghi lễ để thờ cúng. Và trong dịp Tết thì không như những dân tộc khác người Khơ Mú sẽ nhặt sỏi để dự đoán đầu năm cũng như múc nước về chia cho mọi người trong nhà cùng nhau uống, gọi là tập tục uống nước mới.

25. Dân tộc Cơ Tu

Dân số dân tộc Cơ Tu: 74.173 người

Người Cơ Tu thường sinh sống bằng việc trồng cây lương thực và thu hái lâm thổ sản và chỉ có duy nhất 1 mùa làm rẫy trong năm, ngoài ra sẽ còn có các hoạt động kinh tế khác như dệt, đan lát, đánh bắt cá, săn bắn, trao đổi hàng hóa theo dạng vật đổi vật. Hiện nay khi đã có sự phát triển của du lịch thì một số ngành nghề liên quan đến bán các sản phẩm địa phương và trình diễn múa cồng chiêng trở nên nổi bật hơn.

Trong năm thì người dân tộc Cơ Tu sẽ có rất nhiều lễ hội lớn như là lễ mừng lúa mới, lễ đâm trâu, lễ cúng đất, lễ kết nghĩa.. Họ sẽ sử dụng các loại nhạc cụ để nhảy các điệu múa truyền thống mang tên Tungtung Yaya.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Điểm nổi bật trong trang phục của người Cơ Tu chính là ở các hoa văn trang trí được dệt hạt cườm và nhiều loại khác nhau và đi kèm với đó là các loại trang sức với những chất liệu như là bạc, cườm nhựa, răng nanh, mã não,..

Các tục xăm mình, xăm mặt, cưa răng hay đàn ông phải búi tóc sau gáy của người Cơ Tu đã dần được loại bỏ.

26. Dân tộc Giáy

Dân số dân tộc Giáy: 67.858 người

Dân tộc Giáy chung nhóm với những dân tộc Tày, Thái, Lào, Lự, Bố Y, Sán Chay. Họ đều sống chủ yếu ở các khu vực Tây Bắc nước ta. Văn hóa của nhóm các dân tộc này chính là sống ở nhà sàn, tận dụng địa hình vùng cao thung lũng để trồng ruộng bậc thang.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Nếp sống văn hóa, trang phục của nhóm dân tộc Tày – Thái cũng đa dạng, mỗi dân tộc đều sẽ có phong tục thờ cúng các vị Thần khác nhau nhưng đều quan niệm chung về liên kết vũ trụ – con người – các vị thần thánh.

27. Dân tộc Giẻ Triêng

Dân số dân tộc Giẻ Triêng: 63.332 người

Đồng bào dân tộc Giẻ Triêng là một trong số 6 dân tộc đã sinh sống lâu đời tại vùng đất Kon Tum. Họ sống chủ yếu tại những khu vực núi rừng hiểm trở nên những loại vật dụng dùng để vận chuyển đồ đạc là cõng, gùi, vách, xách, kéo,.. cực kỳ thông dụng. Họ sinh sống bằng nghề trồng trọt trên nương rẫy, trong đó sử dụng các nông cụ như nạo cỏ, cuốc, rìu,.. là chủ yếu chứ không nhiều máy móc. Ngoài ra người dân cũng còn nhiều hoạt động khác như là săn bắt, làm đồ thủ công, rèn,..

Người Giẻ Triêng trong tín ngưỡng vẫn rất tin tưởng vào thần linh nên có rất nhiều nghi lễ độc đáo diễn ra trong năm như là lễ mừng lúa mới, lễ mừng hôn nhân, lễ “cà răng”,.. Người dân tộc Giẻ Triêng ngoài phong tục sử dụng các loại lá, rễ và thân cây rừng để chữa bệnh thì vẫn giữ tập tục thực hiện các nghi lễ để cúng thần mỗi khi gặp các bệnh tật.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong hôn nhân thì quyết định kết hôn của con cái rất được ba mẹ tôn tọng và con gái sẽ là người chủ động trong việc kết hôn. Trước khi lập gia đình thì người nam sẽ phải biết đan lát, biết đánh cồng chiêng, con gái thì phải biết đan chiếu, dệt vải. Khi muốn lấy chàng trai nhà nào thì người con gái sẽ chuẩn bị 100 bó củi mang đến nộp cho nhà trai trong lễ cưới. Sau khi cưới xong thì cặp vợ chồng sẽ luân phiên sang ở nhà trai và nhà gái cứ khoảng 3 – 4 năm/ lần. Khi nào một trong 2 bên có cha mẹ qua đời thì mới bắt đầu định cư.

Trang phục truyền thống của người Giẻ Triêng rất đa dạng. Với nam giới sẽ thường mặc khố, khoác 1 chiếc áo choàng bên ngoài. Còn với nữ giới thì thường mặc váy được tạo bởi 2 tấm vải bông khâu ghép lại thành dạng hình ống. Váy có màu đen với nhiều họa tiết hoa văn có màu đỏ và trắng. Khi mặc thì váy sẽ được quấn cao ngang phần nách, che kín ngực và khoác thêm lên một tấm thổ cẩm để giữ ấm cho phần vai.

Đinh tút được biết đến là loại nhạc cụ tiêu biểu, tượng trưng cho văn hóa nghệ thuật của người dân tộc Giẻ Triêng. Chúng sẽ được dùng nhiều trong các dịp lễ hội, đặc biệt là hội Choóc đăil – lễ hội đinh tút của người dân tộc Giẻ Triêng.

28. Dân tộc Tà Ôi

Dân số dân tộc Tà Ôi: 52.356 người

Người dân tộc Tà Ôi thường sinh sống chính ở khu vực trên dải Trường Sơn nước ta. Họ có nhiều tên gọi khác nhau như là dân tộc Ta uôih, Ta uốt. Trước kia dân tộc Tà Ôi sống khá cách biệt với môi trường bên ngoài và thường sống chủ yếu nhờ hái lượm, săn bắn ở khu vực rừng sâu với rất nhiều thủ tục, văn hóa lạc hậu. Tuy nhiên sau đó nghe lời kêu gọi của Đảng và Nhà Nước ta nên đã ra khỏi rừng, sống hòa nhập cộng đồng và bắt đầu thực hiện các hoạt động kinh tế xóa đói giảm nghèo.

Với từng dòng họ người Tà Ôi khác nhau mỗi nơi sẽ có những tên gọi riêng cũng như các điều kiêng kỵ nhất định. Tuy nhiên họ sống theo chế độ phụ hệ, tất cả con cái đều sẽ mang họ cha. Và chỉ có người con trai mới được hưởng gia tài để lại về sau của cha mẹ.

Đời sống tín ngưỡng của người Tà Ôi cũng tin vào việc vạn vật đều tồn tại linh hồn và họ tin và thờ phụng rất nhiều vị thần như là thần nước, thần chỗ ở gia đình, thần nhà dài, thần hổ,..Hằng năm sẽ tổ chức các lễ cúng để cầu mong thần linh bảo vệ, chở che.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong hôn nhân gia đình thì các cặp đôi trai gái Tà Ôi sẽ được tự do tìm hiểu nhau. Họ sẽ đi “sim” – một tục lệ của người Tà Ôi để thử tìm hiểu bạn đời tuy nhiên sẽ không được làm những chuyện “chăn gối”. Sau đó nếu phù hợp sẽ trao các vật làm tin và phía nhà trai sẽ nhờ người mai mối sang hỏi cưới nhà gái.

Người dân tộc Tà Ôi cũng sở hữu kho tàng ca dao tục ngữ, câu đố, chuyện kể về nguồn gốc dòng họ, các bài học hay câu chuyện thể hiện tình yêu,.. cực kỳ phong phú. Những làn điệu dân ca trữ tình cũng là nét độc đáo của người Tà Ôi, có thể kể đến như: Rơin, Lum Tang Wai, Ka lơi,..

29. Dân tộc Mạ

Dân số dân tộc Mạ: 50.322 người

Tiếp tục trong bài viết Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam chính là dân tộc Mạ. Họ là dân tộc sinh sống chủ yếu ở khu vực các tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai với ngành nghề chính là làm nương rẫy, trồng lúa và các loại cây như bầu, bí, bông, thuốc lá,.. Họ cũng nuôi gia súc, gia cầm những thường sẽ để chúng sống thành đàn trong rừng. Và chỉ khi cần giết thịt thì mới bắt về làm thịt. Nghề dệt lụa và rèn sắt được biết là những nghề thủ công nổi tiếng của người dân tộc Mạ.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người Mạ cũng tuân theo chế độ phụ hệ nhưng khi cưới thì chú rể sẽ phải sang ở nhà vợ. Đến khi nào nộp đủ phần sính lễ cho nhà gái thì mới đưa vợ về hẳn nhà mình.

Trong văn học dân gian thì người dân tộc Mạ có rất nhiều truyện cổ, huyền thoại, truyền thuất độc đáo nổi bật nhất là những câu truyện về rừng. Người Mạ cũng có nhiều dân ca trữ tình, chúng được gọi là tam bớt.

Trang phục dân tộc Mạ cũng rất nổi bật khi nam giới sẽ đóng khố, cởi trần hoặc mặc áo chui đầu có xẻ tà có các tua dài với nhiều họa tiết sặc sỡ. Nữ giới thì sẽ mặc váy, áo chui đầu hình chữ nhật đứng, vừa sát thân và không xẻ tà. Ở dưới thân áo và sau lưng có trang trí nhiều hoa văn sặc sỡ sắc màu.

30. Dân tộc Co

Dân số dân tộc Co: 40.442 người

Dân tộc Co cư trú chủ yếu ở huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam) và huyện Trà Bồng (tỉnh Quảng Ngãi). Người Co còn có tên gọi khác là: Cor, Col, Cùa, Trầu. Tiếng Co thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer.

Đồng bào người dân tộc Co sinh sống chủ yếu nhờ nghề rẫy với việc trồng trọt các loại cây lúa, ngô, sắn và quế. Đặc biệt là cây quế được người Co trồng cho năng suất và nguồn thu nhập ổn định

Trong cộng đồng của người Co thì các bô lão rất có tiếng nói và được kính trọng, người được tôn làm trưởng làng sẽ là người có nhiều kinh nghiệm về các phong tục, hiểu biết rộng về các cách sản xuất và ứng xử xã hôi,.. được dân làng rất kính trọng và tín nhiệm.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người Co sẽ thường tìm hiểu nhau trước khi chính thức cưới xin, lễ cưới của họ cũng khá đơn giản không quá tốn kém. Trước kia thì hầu như người Co không kết hôn với những người dân tộc khác tuy nhiên ngày nay đã có rất nhiều nàng dâu, chàng rể là người Kinh, Hrê, Xơ đăng,..

Vì người dân tộc Co không dệt vải nên thường trang phục sẽ mua từ những dân tộc khác. Thường nam sẽ quấn khố, ở trần và nữ giới sẽ quấn váy, mặc áo yếm, áo cộc tay. Họ rất thích đeo vòng cổ, hoa tai, vòng tay bằng bạc hay các hạt cườm. Nhiều phụ nữ người Co quấn rất nhiều vòng cườm quanh phần lưng eo của mình.

31. Dân tộc Chơ Ro

Dân số dân tộc Chơ Ro: 29.520 người

Dân tộc Chơ Ro đã là một trong số 4 dân tộc sinh sống lâu đời tại khu vực Đồng Nai. Ngoài ra đồng bào Chơ Ro còn sinh sống nhiều ở những khu vực như Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận,.. Nguồn sống của người Chơ Ro chủ yếu là về ruộng nước, chăn nuôi, săn bắn, đan lát,..

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Họ cũng thờ phụng rất nhiều vị thần khác nhau, vị thần tối cao trong tín ngưỡng người Chơ Ro chính là thần Yang N’du – vị thần sáng tạo nên thế giới, tiếp theo sẽ là thần Yang Koi – thần lúa, thần Tang Dah – thần nước, thần Yang Bri – thần rừng,.. Trong đó thì con số may mắn tượng trưng cho sự vẹn toàn, đủ đầy theo quan niệm của người Chơ Ro đó chính là số 7.

Người Chơ Ro không theo chế độ mẫu hệ hay phụ hệ mà họ tôn trọng như nhau. Vì ngày xưa không có hệ thống chữ viết nên hầu hết mọi câu chuyên lịch sử, các truyện dân gian đều sẽ được kể truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác. Trong đó sẽ có nhiều câu chuyện kể về sự ra đời của loài người, những tổ tiên của người Chơ Ro,..

32. Dân tộc Xinh Mun

Dân số dân tộc Xinh Mun: 29.503 người

Đồng bào dân tộc Xinh Mun sinh sống chủ yếu ở những tỉnh Lai Châu, Sơn La thuộc miền Bắc nước ta. Bên cạnh việc trồng lúa, làm nương rẫy thì săn bắt hái lượm cũng là hoạt động quan trọng trong đời sống của người dân Xinh Mun.

Trước kia người dân Xinh Mun chủ yếu sống du canh du cư, không cố định chỗ ở tuy nhiên dần về sau đã ổn định lập làng đông đúc và quây quần chung lại với nhau. Họ có rất nhiều tập quán vẫn được giữ vững qua thời gian như là ăn trầu, uống rượu cần, nhuộm răng và ăn những loại có gia vị cay nồng.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong hôn nhân của người Xinh Mun thì nhà trai sẽ phải đưa tiền cưới cho nhà gái. Sau khi làm lễ cưới và năm đến khi cô dâu chú rể đã có con thì lúc này phía nhà trai mới làm lễ đón dâu về. Trong suốt quá trình ở rể thì cả cô dâu và chú rể phải đổi tên riêng theo tên mà bố mẹ vợ, ông cậu hay thầy cúng đặt cho. Qúa trình sinh đẻ sẽ diễn ra ở nhà cô dâu, khi đứa trẻ đầy tháng thì sẽ mời thầy cúng về nhờ đặt tên hộ.

33. Dân tộc Hà Nhì

Dân số dân tộc Hà Nhì: 25.539 người

Người Hà Nhì ở Việt Nam hiện đang cư trú chính tại các tỉnh Lào Cai, Lai Châu nằm giáp với biên giới của Trung Quốc. Họ sử dụng ngôn ngữ Hà Nhì thuộc nhanh ngôn ngữ Di của nhóm Lô Lô, trong tộc ngữ tộc Tạng – Miến, Hán – Tạng. Người dân tộc Hà Nhì sống bằng nghề làm ruộng với hệ thống ruộng bậc thang cực kỳ nổi bật. So với những dân tộc khác thì người dân tộc Hà Nhì đã có nhận thức và trình độ học vấn tốt hơn.

Người dân tộc Hà Nhì chia thành rất nhiều họ khác nhau, và tên sẽ được đặt theo tên của người cha. Phần tên đệm được đặt theo tên của con vật ứng theo ngày sinh. Trước khi kết hôn thì nam nữ sẽ có thể tìm hiểu nhau, hẹn hò và hát giao duyên, đến khi ngủ thử với nhau thấy hợp thì phía nhà trai sẽ mang gạo, thịt, gà lợn sang hỏi cưới. Tùy khu vực người Hà Nhì mà sẽ có ở rể hoặc không.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người dân tộc Hà Nhì có rấy nhiều lễ lớn trong năm như là: Tết truyền thống của người Hà Nhì – Hồ Sự Chà thường tổ chức sau khi mùa màng đã xong tầm tháng 11 dương lịch, tết thiếu nhi của người Hà Nhì sẽ được tổ chức sau Tết Nguyên Đán tầm 2 tuần để cho các trẻ em được sắm quần áo mới, vui chơi. Những ngày lễ cũng quan trọng không kém trong văn hóa người Hà Nhì đó là lễ gạ ma thú.lễ Khu già già, lễ Ga Tho Tho và các lễ cúng lúa mới, lễ ăn nếp mới,..

Ngoài các truyện cổ, thơ dài thì những nhạc cụ kèn lá, đàn môi, sáo dọc, đàn La Khư hay các điệu múa dân giân cũng là nét đẹp văn hóa đặc sắc của người dân tộc Hà Nhì.

34. Dân tộc Chu Ru

Dân số dân tộc Chu Ru: 23.242 người

Người Chu Ru hay còn biết đến là dân tộc Chơ Ru, Choru, Kru,.. là dân tộc sinh sống chủ yếu ở các tỉnh Ninh Thuận, Lâm Đồng. Họ sinh sống theo từng làng và có một người đàn ông cao tuổi đứng đầu để thực hiện các nghi lễ. Trong cộng đồng của người dân tộc Chu Ru cũng được phân chia thành nhiều nhóm khác nhau trong đó ngoài chủ làng, già làng, thầy cúng và bà đỡ để phụ trách nhiều nhiệm vụ khác nhau thì hầu hết người dân sẽ được phân chia rõ thành 2 tầng lớp giàu và nghèo. Trong đó cách phân biệt sẽ là dựa trên các đồ vật mà họ mang trên người như là ngà voi, chiêng, sừng tê giác, trống, ché,.. Sở dĩ có sự giàu nghèo này chủ yếu dựa trên sức lao động nhiều ít của người dân chứ không có yếu tố bóc lột.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Thường thì người Chu Ru sẽ sinh sống thành các đại gia đình lớn gồm 3 – 4 thế hệ cùng sinh hoạt trong một ngôi nhà, Tất cả các thành viên trong gia đình sẽ cùng nhau sản xuất và hưởng chung sản phẩm, quy thành sản phẩm chung của gia đình. Hiện nay trong gia đình Chu Ru vẫn còn nhiều tàn dư của chế độ mẫu hệ khi mà người vợ, người cậu trong nhà vẫn sẽ chuyển quyền thừa kế cho người con gái,

Người Chu Ru hiện vẫn còn có tín ngưỡng thờ cúng các vị thần linh. Theo quan niệm của họ thì khi người dân bị bệnh tật gì sẽ đều là do thần Yang gây ra, bên cạnh việc dùng bùa chú hay cúng bái trị bệnh thì cũng sẽ nhờ các thầy cúng có kinh nghiệm đến để trị bệnh kết hợp với chế thuốc từ những loại cây rừng để chữa trị.

35. Dân tộc Lào

Dân số dân tộc Lào: 17.532 người

Dân tộc Lào là một trong số các dân tộc thiểu số hiện đang cư trú ở các tỉnh Lào Cai, Điện Biên, Sơn La. Ngoài áp dụng các kỹ thuật canh tác, làm thủy lợi để trồng lúa nước thì người dân tộc Lào còn có các nghề phụ như là làm gốm, dệt, làm đồ bạc, rèn,..

Trong văn hóa của người dân tộc Lào sẽ có một người giỏi chữ thực hiện việc ghi chép các câu truyện cổ hay dân ca để lưu truyền sang nhiều thế hệ, tránh bị mai một. Ngoài ra thì văn nghệ dân gian của người Lào cũng sẽ có chịu ảnh hưởng một phần của văn nghệ dân gian của dân tộc Thái.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trang phục truyền thống của người dân tộc Lào với nam giới sẽ mặc áo bông nhuộm chàm có hàng cúc làm bằng gỗ hoặc vải giống như loại áo của người đàn ông dân tộc Thái. Còn trang phục của nữ giới sẽ mặc váy đen quấn cao lên trên ngực, phần gấu váy có đa dạng hoa văn sặc sỡ, phần áo sẽ bó vào thân và có hàng khuy bạc phổ biến.

36. Dân tộc Kháng

Dân số dân tộc Kháng: 16.180 người

Người Kháng, còn gọi là Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đón, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Aỏi, Xá Bung, Quảng Lâm, là dân tộc cư trú tại bắc Việt Nam và Lào.

Người Kháng nói tiếng Kháng, là ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Môn-Khmer. Tuy nhiên vị trí của nó trong nhánh Môn-Khmer chưa được xác định rõ ràng, Tiếng Kháng được cho là thuộc ngữ chi Khơ Mú hoặc ngữ chi Palaung.

Người Kháng sinh sống tại 2 tỉnh Sơn La và Lai Châu.

Người Kháng thường làm nông, rẫy và các nghề chăn nuôi, đan lát và làm thuyền độc mộc là chủ yếu. Một trong số những nét đẹp trong văn hóa của họ nằm ở tại ngôi nhà sàn. Nhà sàn người Kháng có 2 chái và 3 gian với phần mái có hình mu rùa, có 2 cửa sổ phía 2 bên và 2 cửa ra vào ở 2 đầu. Trong mỗi ngôi nhà đều sẽ có 2 gian bếp, 1 là dùng để nấu đồ ăn hàng ngày và 1 là đề sử dụng nấu các đồ cúng tế.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Việc kết hôn của dân tộc Kháng cũng hoàn toàn tự do và lễ nghi cũng không quá phức tạp. Sau quá trình chàng trai ngủ tại nhà người con gái 4 – 5 đêm để tìm hiểu thì nếu ưng nhau sẽ bắt đầu tiến hành làm lễ ăn hỏi. Sau 3 năm ở rể thì đôi vợ chồng sẽ làm lễ để ra mắt họ hàng và cuối cùng mới rước dâu.

37. Dân tộc La Chí

Dân số dân tộc La Chí: 15.126 người

Người dân tộc La Chí sinh sống ở khu vực Lào Cai, Hà Giang với phong tục trồng lúa nước, làm ruộng bậc thang và những vùng đất nương tốt sẽ dùng để trồng bông, trồng chàm. Họ thường sống trong những ngôi nhà kiểu quần thể nhà sàn, nhà trệt và nhà kho trong một không gia nhỏ tuy nhiên lại có lối kiến trúc chặt chẽ vô cùng độc đáo. Thường trong một gia đình thì sẽ có nhiều thế hệ hay các cặp vợ chồng cùng sinh sống chung với nhau.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người La Chí sẽ thờ cúng tổ tiên vào những dịp lễ Tết và đặc biệt trong những ngày chôn cất ba mẹ thì con cái sẽ cần ghi nhớ và hàng năm đến ngày này sẽ không được gieo lúa, cho vay hay mượn vào ngày này.

Phong tục nhận ba mẹ nuôi cho trẻ sơ sinh khá phổ biến đối với người La Chí. Sau khi chào đời được 3 ngày thì nhà gia chủ sẽ đặt 1 sợi chỉ đỏ lên bát nước đầy đặt lên bàn thờ, khi có người nào đó từ bên ngoài bước vào nhà thì sẽ trở thành ba mẹ nuôi của đứa trẻ và sẽ có nhiệm vụ đặc tên cho trẻ. Nếu như đứa trẻ hay khóc nhiều chứng tỏ là tên chưa hợp người, lúc này sẽ cần bói để tìm ba mẹ nuôi thích hợp đặt tên cho bé.

Người dân tộc La Chí có cách nấu ăn bằng hơi nước tấy độc đáo. Cơm họ sẽ nấu trong chiếc chảo to, khi cơm sôi thì sẽ vớt lên và cho vào chỗ như là xôi. Cơm sẽ nấu chín bằng hơi nước nóng và không bị nát hạt. Đối với những thức ăn khác sẽ sấy khô để dùng dần hoặc làm thịt chua.

38. Dân tộc Phù Lá

Dân số dân tộc Phù Lá: 12.471 người

Người dân tộc Phù Lá sinh sống nhiều nhất ở tại tỉnh Lào Cai của nước ta, ngoài ra cũng sẽ có một số ít sống tại các vùng Hà Giang, Yên Bái. Ngoài tên gọi là Phù Lá thì dân tộc này còn được biết đến là dân tộc Xá Phó, Bồ Khô Pạ, Va Xơ Lao,… Ngành nghề thủ công của người Phù Lá cũng rất nổi tiếng với các sản phẩm đan mây, tre để làm các dụng cụ chứa đựng như là gùi. Họ sẽ dùng chúng để đem đổi lấy nhiều món hàng hóa khác để sử dụng trong đời sống.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Đời sống của người dân Phù Lá về mặt vật chất có thể sẽ còn nhiều thiếu thốn tuy nhiên đời sống tinh thần của họ là cực kỳ phong phú, thể hiện rõ nét nhất chính là những ca khúc mang đậm âm hưởng núi rừng mà dân tộc Phù Lá sở hữu. Với lối hát kể, hát đối có độ luyến láy, lên xuống cao độ ở giọng điệu thể hiện người Phù Lá sẽ truyền tải được cho nhau những truyền thông văn hóa lâu đời của dân tộc mình, về rừng, núi và những thửa ruộng bậc thang.

Trang phục dân tộc Phù Lá rất đặc sắc khi nó vừa mang trong mình nét đẹp cổ truyền nhưng cũng rất hiện đại. Với nam giới sẽ mặc loại áo xẻ ngực được may từ 6 miếng vải tạo thành. Phần cổ áo thấp, ống tay hẹp và phần cổ tay có thêu hoa văn đẹp mắt. Với nữ giới thì thường mặc áo 5 thân dài tay, phần cổ thấp và vuông, kiểu chui đầu. Váy màu chàm đen và có phần đầu và chân váy trang trí hoa văn sặc sỡ. Trên đầu quấn khăn hoặc đội một chiếc mũ thêu ghép hoa văn theo lối chữ nhất.

39. Dân tộc La Hủ

Dân số dân tộc La Hủ: 12.113 người

Ngoài tên gọi La Hủ thì dân tộc này còn được gọi bằng nhiều tên khác như Cò Xung, Xá Lá Vàng, Khù Sung, Khả Quy,.. Họ thường sống tập trung chủ yếu ở vùng Lai Châu, Thái Nguyên. Ngôn ngữ của người La Hủ thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến của hệ Hán – Tạng.

Trước kia thì người dân La Hủ sẽ sống chủ yếu nhờ làm rẫy, lái lượm và săn bắn là chính. Tuy nhiên trong giai đoạn những năm gần đây thì họ đã biết trồng lúc nước và sử dụng trâu cày làm ruộng.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Ở trong gia đình của người dân tộc La Hủ thì chỉ có người con trai trong nhà mới được thừa hưởng tài sản mà ba mẹ để lại. Về hôn nhân thì hoàn toàn tự do lựa chọn, tuy nhiên sau khi kết hôn thì chú rể sẽ cần ở nhà vợ sinh sống từ 2 – 3 năm sau đó mới được đưa vợ về nhà mình. Người phụ nữ sẽ sinh đẻ ở tại chính buồng ngủ của mình và sau 3 ngày đứa trẻ sẽ được đặt tên, nếu như trong 3 ngày này mà nhà có khách vào chơi thì người khách sẽ được đặt tên cho đứa trẻ.

Người La Hủ rất thích văn nghệ khi có đến hơn chục điệu múa khèn và các bài hát của người dân tộc La Hủ mang một nhịp điệu rất riêng và sử dụng tiếng Hà Nhì để hát.

40. Dân tộc La Ha

Dân số dân tộc La Ha: 10.157 người

Đồng bào dân tộc La Ha nằm trong danh sách 16 dân tộc ít người của nước ta. Họ sinh sống chính tại tỉnh Sơn La và lấy nghề làm rẫy, hái lượm để có nguồn thức ăn chính. Ngày nay người La Ha đã biết trồng lúa nước và nuôi thêm các loài gia súc gia cầm để cải thiện đời sống.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Việc yêu đương của người La Ha hoàn toàn tự do tuy nhiên khi cưới xin cần có sự ưng thuận từ phía ba mẹ. Để tỏ tình với cô gái thì chàng trai sẽ đi đến nhà cô gái để sử dụng những nhạc cụ như sáo, nhị và lời ca để tỏ bày trước khi nói chuyện. Nếu như sau lễ dạm hỏi mà nhà gái không trả lại trầu cho bà mối phía nhà trai đưa đến thì sẽ tổ chức lễ xin ở rể và thời gian ở rể sẽ từ 4 năm – 8 năm. Sau thời hạn này thì lễ cưới sẽ được tiền hành, lúc này cô dâu sẽ theo chồng về nhà và phải đổi họ theo chồng.

41. Dân tộc Pà Thẻn

Dân số dân tộc Pà Thẻn: 8.248 người

Người dân tộc Pà Thẻn sinh sống chủ yếu tại 2 tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang.

Người Pà Thẻn sống bằng nghề trồng lúa nước, làm nương rẫy và trồng cây chè Shan tuyết. Những người Pà Thẻn chia làm nhiều họ khác nhau và người dân tộc này cũng quy định khi cùng họ thì đã là người thân thích và không được lấy nhau.

Người dân tộc Pà Thẻn có phong tục ở rể tạm thời, với những gia đình không có con trai thì có thể lấy rể ở hẳn. Tuy con cái sinh ra mang họ ba nhưng sẽ vẫn phải thờ họ vợ.

Người dân Pà Thẻn có quan niệm là xung quanh họ luôn có các vị thần ở bên che chở, bảo vệ nên họ có thể vượt qua được nhiều khó khăn, trở ngại. Đặc biệt vị thần tối cao của người Pà Thẻn đó chính là thần Lửa. Họ thường tổ chức lễ hội nhảy lưa linh thiêng, huyền bí để cúng thần và thực hiện nghi thức nhảy qua đống than hồng. 10 thanh niên khỏe mạnh trong làng sẽ nhảy vào phần lửa than đang cháy bằng đôi chân trần, tuy nhiên lại không sợ hãi hay bị bỏng chút nào.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Chính giá trị văn hóa đặc sắc mà lễ hội này mang đến nên đến 2013 lễ hội nhảy lửa đã được công nhận là một trong số những Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia của nước ta. Trở thành điểm hấp dẫn du lịch thu hút nhiều khách tham quan trong và ngoài nước đến đây chiêm ngưỡng mối dịp lễ hội diễn ra.

42. Dân tộc Chứt

Dân số dân tộc Chứt: 7.513 người

Người dân tộc Chứt sinh sống tập trung tại tỉnh Quảng Bình, Đak Lak, Hà Tĩnh, Lâm Đồng. Ngôn ngữ mà người Chứt sử dụng có cùng hệ với tiếng Việt nguyên thủy. Trước kia họ sống chủ yếu theo lối du canh du cư và khá nhút nhát, gặp người lạ là sẽ lẩn trốn vào rừng. Thường khi ấu cũng chưa có quần áo mà chỉ che thân bằng vỏ cây sui, ngủ trong các lều tự tạo hoặc hang động. Đến hiện nay thì người Chứt đã sống định canh định cư và biết trồng trọt, canh tác cũng như chăn nuôi, đan lát.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người Chứt rất tin vào các vị thần và người tối cao trong tín ngưỡng của họ chính là Thần Nông. Khi mỗi hoạt động nông nghiệp quan trọng diễn ra như xuống giống, gieo hạt,.. đều tổ chức lễ cúng bái.

Người dân tộc Chứt có món cơm Pồi rất nổi tiếng. Nó được nấu từ lúa nếp, ngô, sắn và đậu mang nấu chính sau đó cho vào cối giã nhuyễn thành bột, nhồi thật kỹ. Họ dùng ống tre hay nghè hông để bỏ bột giã nhuyễn vào, cho thêm ít nước và lấy mo chuối quấn quanh miệng. Loại cơm này thường sẽ ăn chung với các loại cá, ôc, rau rừng hay thịt thú rừng

43. Dân tộc Lự

Dân số dân tộc Lự: 6.757 người

Người Lự cư trú chủ yếu tập trung ở 2 huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu và một lượng đáng kể di cư vào tỉnh Lâm Đồng.

Người Lự đã có truyền thống làm ruộng từ rất lâu đời, họ biết cày bừa, dẫn nước vào mương, gieo mạ, cấy lúa và còn trồng thêm rất nhiều loại cây ngô, khoai, sắn, chàm, bông cạnh phía vườn nhà. Hầu như nghề dệt khá phổ biến với người Lự khi đi đến mỗi gia đình sẽ đều thấy có vài ba khung cửi ở đó.

Người Lự theo tín ngưỡng Phật giáo Nam tông có nơi thờ tự. Lễ hội lớn nhất tôn thờ các vị Phật sẽ diễn ra vào tháng 6 dương lịch hàng năm mang tên là lễ hội Songkran. Trong lễ hội các nhà sư, người dân sẽ được dự tiệc chúc mừng và thực hiện nghi lễ té nước như gửi tặng nhau lời cầu mong may mắn.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Hôn nhân của người Lự thì phía chú rể sẽ phải ở rể trong 3 năm nhà vợ trước khi ra riêng. Con cái khi sinh ra sẽ lấy họ cha. Nếu là con trai sẽ có chữ đệm là Bạ, con gái sẽ có chữ đệm là Ý. Người Lự cũng sống khá chung thủy với nhau, và theo luật lệ nếu như trai bỏ vợ, gái bỏ chồng sẽ bị phạt rất nặng

44. Dân tộc Lô Lô

Dân số dân tộc Lô Lô: 4.827 người

Đồng bào dân tộc Lô Lô sinh sống ở khu vực các tỉnh Cao Bằng và Hà Giang. Tuy là dân tộc thiểu số ít người nhưng những nét văn hóa lâu đời, giá trị truyền thống luôn được gìn giữ theo năm tháng. Thường thì người Lô Lô sẽ cư trú trong những ngôi nhà dựa lưng vào phần vách núi với cửa hướng về phía thung lũng và cánh đồng. Không gia nhà ở cũng có 3 gian như một số dân tộc khác với gian giữa để bàn thờ tổ tiên, tiếp khách và tổ chức đám cưới, đám ma. Gian bên phải là nơi mà ông bà và bố mẹ sẽ sinh sống còn gian bên trái là nơi mà con trai, con dâu hay con rể sẽ ở. Một phần gác phía trên sẽ dùng cho khách ngủ lại hoặc để các đồ thực phẩm khô trong nhà.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong hôn nhân thì người nam và người nữ dân tộc Lô Lô có thể tự do tìm hiểu nhau, đến khi muốn kết hôn phía nhà nam sẽ cần nhờ 4 người làm mối là 2 cặp nam nữ đến nhà gái hỏi cưới. Thường lễ vật cưới sẽ được mang đến nhà ông cậu – người quyết định các việc hôn nhân hay phân chia tài sản trong nhà chứ không trực tiếp mang đến nhà cô dâu,

Trống đồng đối với người Lô Lô giống như là một báu vật thiêng liêng mà những thế hệ trước sẽ truyền lại cho thế hệ sau, chúng không chỉ mang yếu tố tâm linh mà còn là biểu tượng của sức sống dân tộc người Lô Lô

45. Dân tộc Mảng

Dân số dân tộc Mảng: 4.650 người

Người Mảng sống đông đúc nhất tại khu vực Nậm Nhùn, Lai Châu. Ở đây người dân tộc Mảng thờ vị thần tối cao là trời và cũng rất tin tưởng vào các yếu tố tâm linh đã tạo nên nhiều tục lệ kiêng kị như là con dâu không được vào phòng ngủ của bố mẹ chồng, người chết khi mang đi chôn phải đi về phía cửa phụ chứ không được đi cửa chính,..

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Đám cưới của người Mảng cũng là hoạt động mang tính cộng đồng khá cao khi tất cả người trong bản sẽ giúp nhau thực hiện và hoàn tất sẽ tổ chức liên hoan, quây quần múa xòe. Ngày chọn làm lễ cưới cần vào những lúc mùa màng thu hoạch xong, phải là ngày đẹp không phạm vào ngày mất của người thân 2 bên gia đình. Lễ vật nhà trai cần chuẩn bị sẽ gồm có bạc trắng, lợn, gà, rượu cần, gạo nếp, cá suối sấy khô và thịt sóc hoặc chuột đã được sấy khô. Những lễ vật này trong quan niệm người Mảng chính là dùng để đổi lấy con dâu nên trong khi tổ chức tại nhà gái thì ba mẹ chồng sẽ không được đến dự. Đặc biệt người dân tộc Mảng còn có tục lệ hất bùn, rượu và bôi nhọ nồi vào mặt nhau trong lễ cưới để cầu chúc may mắn

46. Dân tộc Cờ Lao

Dân số dân tộc Cờ Lao: 4.003 người

Người dân tộc Cờ Lao sinh sống tại các huyện Đồng Văn và Hoàng Su Phì thuộc tỉnh Hà Giang và họ sử dụng ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Tai-Kadai, tuy nhiên hiện nay còn rất ít người có thể nói được thứ tiếng này, hầu như đã chuyển sang sử dụng một loại ngôn ngữ là tiếng Quan Thoại. Họ đôi khi cũng sẽ dùng ngôn ngữ Bố Y hay H’Mông để thay thế.

Họ sinh sống trên những khu vực núi đá nên thường chủ yếu là sẽ làm nương cày, thổ canh là chính. Tại đây cây ngô là lương chính của người Cờ Lao. Với những người sống tại vùng núi đất thì sẽ chuyển sang sinh sống bằng trồng ruộng bậc thang, đan lát, làm đồ gỗ.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Trong tín ngưỡng người Cờ Lao thì họ tin rằng mỗi người, cây lúa, cây bắp hay các loài gia súc đều có linh hồn và cứ vào mỗi dịp gặt lúa xong sẽ tổ chức lễ cúng. Vị thần quan trọng được hầu hết toàn bản thờ cúng đó chính là Thần Đất

Với mỗi nhóm người Cờ Lao khác nhau thì tục lệ cưới xin sẽ có nhiều đổi khác. Với người Cờ Lao Xanh thì chú rể sẽ mặc một chiếc áo dài xnah, quấn khăn đỏ qua người và cô dâu về đến cổng nhà cần đạp vỡ một cái bát và một cái muôi gỗ trước nhà trước khi vào. Hiện nay cách cướp vợ, kéo vợ giống như người H’Mông vẫn diễn ra trong dân tộ Cờ Lao.

Trong gia đình người Cờ Lao nếu thiếu con trai thì chàng rể có thể sẽ phải ở nhà vợ và được thừa hưởng tài sản của ba mẹ vợ. Ở nhà sẽ có thể đặt được bàn thờ tổ tiên của mình và bàn thờ bên vợ.

47. Dân tộc Bố Y

Dân số dân tộc Bố Y: 3.232 người

Người dân tộc Bố Y hiện đang sống tập trung nhiều ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái và Tuyên Quang. Họ sử dụng ngôn ngữ thuộc chi Thái trong hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Người Bố Y sống bằng nghề làm nương rẫy, chăn nuôi gia súc gia cầm và có nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi cá. Họ sẽ ra sông tìm trứng cá và bỏ và ao hoặc ruộng nước để nuôi.

Vì sống ở khu vực núi cao có độ ẩm và lượng mưa lớn nên nhà ở bắt buộc phải sử dụng đến các vật liệu chắc chắn như là tre, gỗ. Thường các nhà ở đều sẽ nằm quây quần bên khu vực sườn đồi hay bờ suối, thung lũng có nền tôn cao.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Hôn lễ người Bố Y khá phức tạp và tốn kém nhiều chi phí. Nét độc đáo chính là chàng rể sẽ không đi đón dâu mà cô em gái của chú rể sẽ dắt ngựa để đến rước chị dâu về nhà chồng. Khi đi về nhà chồng thì cô dâu sẽ mang theo một cái kéo, một con gà mái nhỏ để đi giữa đường thả gà vào rừng

Trang phục của người Bố Y với nam giới sẽ mặc áo cánh ngắn tứ thân có cổ viền, quần lá tọa màu chàm. Còn nữ sẽ mặc áo Pư ngắn có phần ống tay rời, xiêm che bụng và ngực, váy Phin xòe có hoa văn.

48. Dân tộc Cống

Dân số dân tộc Cống: 2.729 người

Người Cống sinh sống tập trung tại Điện Biên và Lai Châu là chủ yếu. Họ sống bằng nghề làm nương rẫy, hầu hết thức ăn đều tìm kiếm trong rừng, bắt cá bằng tay hay dùng các loại bả thuốc độc làm từ lá cây rừng. Phụ nữ người Cống không biết dệt vải nên hầu hết họ sẽ trồng bông và đem đổi lấy vải hay quần áo, tuy nhiên họ lại đan lát rất giỏi.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Ngày trước theo tục lệ chỉ cho người cùng dân tộc lấy nhau nhưng về sau đã có thể cưới được người dân tộc khác. Với những người cùng dòng họ thì cần cách 7 đời mới được kết hôn với nhau. Thường thì sau lễ dạm hỏi chàng trai sẽ bắt đầu ở rể, cô gái có chồng sẽ búi tóc lên đỉnh đầu. Đến khi nào cả hai sinh được con thì mới làm đám cưới. Để tổ chức lễ thì phía nhà trai cần có bạc trắng để nộp cho nhà gái, còn nhà gái phải có của hồi môn cho cô dâu mang về nhà chồng

49. Dân tộc Ngái

Dân số dân tộc Ngái: 1.649 người

Người dân tộc Ngái sử dụng ngôn ngữ theo hệ Hán – Tạng. Họ thường sinh sống đông nhất tại các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Đồng Nai, Bình Thuận,.. Tùy thuộc vào khu vực sinh sống mà người dân tộc Ngái sẽ có thể trồng lúa, làm đồ thủ công, đánh bắt cá,..

Trong hôn nhân gia đình người Ngái khá bình đẳng với nhau, người chồng sẽ là trụ cột chính. Trước kia trong lễ cưới hỏi người Ngái sẽ trải qua 2 lần cưới là lễ thành hôn và lễ nhập phòng. Phụ nữ người Ngái khi sinh con sẽ cần kiêng cữ rất nhiều thức và sau khi sinh con đầu 60 ngày hoặc với con thứ 40 ngày mới được về nhà mẹ đẻ.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Ông cậu có vai trò khá quan trọng trong gia đình người Ngái. Đây là người sẽ giống như người cha thứ 2 của các chị em gái trong nhà, khi cháu sinh con thì cũng sẽ là người giúp đặt tên cho cháu ngoại.

50. Dân tộc Si La

Dân số dân tộc Si La: 909 người

Người Si La hiện đang sinh sống tại Lai Châu, họ sử dụng ngôn ngữ thuộc ngôn ngữ Tạng-Miến thuộc hệ Hán – Tạng. Người Si La sinh sống bằng nghề trồng ngô, trồng lúa. Người dân tộc Si La có rất nhiều dòng họ và đều có quan hệ rất khắng khít với nhau.

Trong hôn nhân của người Si La sẽ là một vợ một chồng. Tuy nhiên những con cô con cậu cách 3 đời sẽ được phép kết hôn với nhau. Họ không chấp nhận ly hôn tuy nhiên lại cho phép những người góa bụa được tái hôn. Thường thì sau lễ cưới cô dâu sẽ có thể về sống tại nhà chồng. Hoặc rể đến ở nhà vợ trong khoảng từ 1- 8 năm, tuy nhiên không ở đời. Sau khi hết thời hạn ở rể sẽ buộc tách ra ở riêng và có thể làm nhà sát bố mẹ vợ để tiện chăm sóc.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Khi mang thai thì người phụ nữ Si La sẽ cần kiêng cữ nhiều thứ, và họ sinh con trong nhà bằng hình thức đẻ ngồi. Sau khi sinh thì bố mẹ sẽ mời người già trong bản làng đến để nhờ đặt tên hộ, sau 3 ngày đặt tên sẽ thực hiện lễ cúng hồn cho trẻ. Tên của người Si La có phân biệt rõ giới tính thông qua họ đó là nam giới sẽ có đệm là Chà, nữ giới sẽ có đệm là Có.

Trang phục dân tộc người Si La khá cầu kỳ khi phần áo trước ngực sẽ may khác màu so với những vị trí khác và sẽ đính lên nhiều đồng xu nhôm, đồng xu bạc. Mỗi lứa tuổi khác nhau thì người phụ nữ Si La sẽ có các khăn đội đầu mang màu sắc khác nhau. Thường thì phụ nữ Si La có đeo bên mình một chiếc túi dây rừng có trang trí 1 sợi chỉ đỏ.

51. Dân tộc Pu Péo

Dân số dân tộc Pu Péo: 903 người

Người Pu Péo sinh sống tập trung chủ yếu tại khu vực Cao nguyên Đồng Văn, Hà Giang với nghề làm ruộng bậc thang, trồng ngô, mạch ba góc, đậu,.. Loại lương thực chính của họ thường ngày chính là bột ngô đồ chín.

Tương tự như những dân tộc anh em sinh sống tại miền núi phía Bắc nước ta thì người Pu Péo cũng có tín ngưỡng thờ đa Thần. Họ thờ nhiều thần linh như thần rừng, thần núi, thần suối, thần sông,.. Trong đó lễ hội cúng thần rừng của người Pu Péo lại có nét văn hóa đặc trưng riêng không giống với bất cứ dân tộc khác.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người Pu Péo có rất nhiều dòng họ khác nhau và họ có một tập tục đó là khi người con trai họ này đã kết hôn với con gái họ kia thì về sau con trai họ kia sẽ không được lấy vợ là người họ này nữa. Sau khi kết hôn con dâu sẽ về nhà chồng và con cái sinh ra sẽ mang họ cha.

Hiện nay dân tộc Pu Péo là một trong số ít những dân tộc Việt còn sử dụng trống đồng trong đời sống. Họ dùng nhiều nhất là ở các ngày lễ chay với 2 trống đực và cái treo đối diện nhau, một người đứng giữa sẽ cầm củ chuối gõ vào mặt trống.

52. Dân tộc Rơ Măm

Dân số dân tộc Rơ Măm: 639 người

Người Rơ Măm cư trú tập trung chính ở tại Kon Tum thường sống bằng nghề trồng lúa nếp, làm rẫy là chính. Mỗi ngôi nhà trong làng sẽ có tầm 10 – 20 người thuộc nhiều thế hệ khác nhau cùng sinh sống. Hiện thì những cặp vợ chồng anh chị em trong nhà đã gần như độc lập về kinh tế.

Lễ cưới của người Rơ Măm sẽ gồm 2 bước là ăn hỏi và lễ cưới. Họ có nét độc đáo là sau khi cưới xong có thể bỏ nhau nhưng khi đã sống chung thì sẽ gần như không bỏ nhau nữa. Khi sinh đẻ thì người phụ nữ Rơ Măm sẽ sống trong một ngôi nhà nhỏ ngoài rừng, đến ngày sinh sẽ nhờ một bà đỡ đẻ có kinh nghiệm trong làng. Trong giai đoạn có thai đến khi đứa trẻ được 3 tuổi thì người mẹ sẽ phải kiêng ăn các món nhiều mỡ. Trước kia khi còn sinh trong nhà thì người Rơ Măm kiêng không cho người lạ vào, nếu có ai vị phạm sẽ buộc giữ lại trong nhà cho đến khi hết thời gian kiêng của đứa trẻ và tên của đứa trẻ sẽ buộc đặt theo tên của khách.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Người dân tộc Rơ Măm hiện vẫn còn dữ tập tục ăn bốc và món ưa thích thường xuất hiện trong bữa ăn hàng ngày là cơm nếp đốt trong ống tre ăn với canh và muối ớt. Nước uống sẽ lấy từ các mạch nước ngầm và đựng trong vỏ bầu khô, uống trực tiếp mà không cần đun sôi.

Ngày lễ lớn nhất của người Rơ Măm diễn ra sau khi kết thúc mùa thu hoạch rẫy, lúc này các gia đình sẽ mở lễ ăn mừng kế tiếp nhau. Sau khi lễ mừng lúa mới kết thức là thời điểm các lễ kết hôn hay lễ bỏ mã cho người đã chết sẽ diễn ra

53. Dân tộc Brâu

Dân số dân tộc Brâu: 525 người

Đồng bào dân tộc Brâu sử dụng ngôn ngữ thuộc hệ tộc Môn – Khmer. Họ quen sống theo lối du canh du cư với phương pháp đốt rừng làm rẫy để trồng lúa, ngô, khoai sắn tuy nhiên kỹ thuật trồng trọt còn kém, công cụ sản xuất còn thô sơ nên chứ có năng suất cao.

Trong phong tục của người Brâu thì lễ cúng nhà mới được xem là một dịp trọng đại, lúc này sẽ mời cả làng đến tham dự bữa tiệc chung vui.

Trang phục dân tộc Brâu khá đơn giản nhưng vẫn giữ được nét tinh tế. Với đàn ông sẽ mặc áo thân thẳng có hình vuông với các họa tiết hoa văn hình mũi tên hay hàng rào trên áo để thể hiện sự khỏe khoắn. Phụ nữ thì sẽ mặc các loại váy có hoa văn nhẹ nhàng cùng với đó là nhiều đồ trang sức bằng vàng, bạc sử dụng đeo ở chân và tay.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Hiện nay người Brâu vẫn giữ được tục cà răng như là một lễ trưởng thành và quan niệm nó giống thủ tục giúp sau này người chết có thể về với tổ tiên của mình. Thủ tục này diễn ra trong nhiều giờ đồng hồ và người ta sẽ dùng đá mài để mài nhẵn sát phần lợi cho 4 chiếc răng cửa hàm. Kết thúc họ sẽ dùng một loại vỏ cây rừng để cầm máu, sát trùng và giảm đau

Chiêng tha được biết đến là loại nhạc cụ dân tộc cổ truyền của người dân tộc Brâu. Nó có giá trị lên đến từ 30 – 50 con trâu cho một bộ. Là biểu tượng của yếu tố tinh thần, tâm linh của người Brâu trong sinh hoạt lễ hội, giống như một vật kết nối giữa thế giới con người với các vị thần linh. Ngoài ra người Brâu còn có một loại nhạc cụ được tạo nên từ 5 – 7 ống lồ ô mang tên là Krông Pút – là một nhạc cụ thường được thiếu nữ Brâu sử dụng trong đám cưới, hát điệu dân ca hay ru con.

54. Dân tộc Ơ Đu

Dân số dân tộc Ơ Đu: 428 người

Dân tộc Ơ Đu là dân tộc thiểu số ít người nhất trong 54 dân tộc của Việt Nam. Người Ơ Đu hiện đang sinh sống chủ yếu tại Tương Dương, Nghệ An. Họ sử dụng ngôn ngữ thuộc chi Khơ Mí của ngữ tộc Môn – Khmer. Trong văn hóa người Ơ Đu chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi những nền văn hóa của dân tộc Thái hoặc Khơ Mú. Họ sinh sống chính bằng nương rẫy, săn bắn và hái lượm. Các loài vật như gà, lợn thường nuôi với mục đích để cúng bái, đãi khách khứa đến nhà.

Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Hôn nhân của người Ơ Đu có tục lệ không kết hôn trong cùng tộc, thường sẽ kết hôn với những người dân tộc khác. Họ cũng có tục ở rể, và sau một thời gian sinh sống chàng rể có thể đưa vợ về lại nhà mình để sinh sống. Người phụ nữ Ơ Đu cũng có tục sinh ngồi, và đứa bé sẽ được tính tuổi từ ngày có tiếng sấm trong năm, lúc này sẽ tính là đầy năm và ba mẹ lúc này sẽ làm lễ đặt tên.

Người Ơ Đu có rất nhiều ngày lễ hội trong năm như ngày Tết Nguyên Đán, ngày tết cơm mới,.. Nổi bật và lớn nhất là lễ đón tiếng sấm trong năm, vào ngày này người ta sẽ mở hội tế trời và làm thịt trâu bò, lợn, gà để ăn mừng.

Văn hóa tâm linh

Nét văn hoá của dân tộc Thái Đen ở Tuần Giáo, Điện Biên

Huyện Tuần Giáo nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Điện Biên, cách Hà Nội khoảng 405km, tại đây tập trung nhiều người dân tộc Thái Đen sinh sống.

1345

Cho tới ngày nay, người Thái Đen vẫn còn lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc.

Người Thái Đen ở Tuần Giáo sinh sống như thế nào?

Người Thái sống quây quần theo từng bản làng, mỗi bản có khoảng 30-80 nóc nhà kề nhau. Họ sống chủ yếu bằng trồng lúa nước, lúa nương và chăn nuôi lợn, gà, trâu, bò… hoặc đi làm thêm, đi kiếm củi. Ở đây hầu như mọi nhà đều tự nấu rượu ngô, rượu sắn để phục vụ gia đình mình và bán kiếm thêm thu nhập.

Trang phục phụ nữ Thái đen

Phụ nữ Thái đen có bộ trang phục rất duyên dáng, áo cóm bó sát người, váy đen dài chấm gót, đầu đội khăn piêu.

Nét văn hoá của dân tộc Thái Đen ở Tuần Giáo, Điện Biên

Người con gái Thái khi về nhà chồng phải chuẩn bị đủ 20 chiếc khăn piêu và chăn bông để biếu gia đình và họ hàng nhà chồng. Phụ nữ có chồng phải vấn tóc cao trên đỉnh đầu gọi là tằng cẩu. Điều này vừa để phân biệt được người con gái đã có chồng hay chưa, vừa thể hiện sự thủy chung của người phụ nữ đó với chồng.

Tục thờ cúng tổ tiên của người Thái đen ở Tuần Giáo

Người Thái Đen thường làm nhà sàn gỗ 5 hoặc 3 gian tùy theo điều kiện của từng gia đình. Các gian giữa được dùng làm phòng ngủ, cách nhau bởi các tấm rido căng dây lên các cột nhà. Hai gian bên ngoài cùng đầu đốc nhà thì dùng làm bếp đun nấu, bên còn lại dùng để đặt bàn thờ thờ cúng ông bà, tổ tiên.

”Pa-tong” là một trong những nghi lễ thờ cúng để tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên. Theo lịch của người Thái cứ 10 ngày họ lại làm cơm cúng một lần và chỉ những dòng họ lớn, danh giá mới được làm pa-tông. Ngày mất của bậc bề trên nhất trong họ sẽ được chọn để làm ngày giỗ chung cho cả dòng họ. Bà con thường đồ xôi, nướng cá, nướng thịt hoặc mổ gà và thêm đĩa rau hay đĩa măng để đặt lên bàn thờ. Trong những ngày này mọi người phải giữ yên lặng, không được làm ầm ĩ, không được bật loa đài to. Phận dâu hoặc con gái đã đi lấy chồng thì không được làm cơm cúng, kiêng đi lại gần chỗ thờ cúng.

Đối với những gia đình duy tâm hoặc có người hay ốm đau thì họ thường làm thêm một ban thờ nhỏ ngoài nhà để thờ cúng ma đói ma khát, ma lang thang. Vào những ngày mùng một, ngày rằm, hay khi trong nhà có người ốm đau họ thường thắp hương, bày hoa quả, bánh kẹo để cúng các ma với hi vọng những hồn ma sẽ không quấy rầy gia đình, phù hộ cho gia đình được mạnh khỏe, làm ăn thuận lợi.

Tết của người Thái Đen ở Tuần Giáo

Ngày tết ở nơi đây có rất nhiều hoạt động đặc sắc. Trong những ngày này những người dân tộc Thái đen thường đi đến nhà nhau ngồi tụ tập uống rượu, hát đối đáp, múa xòe đến thâu đêm suốt sáng. Những chàng trai, cô gái Thái thì chọn cho mình bộ trang phục đẹp nhất để đi chơi ném còn, chơi đu quay, múa sạp…

Nét văn hoá của dân tộc Thái Đen ở Tuần Giáo, Điện Biên

Mỗi dân tộc đều có những nét phong tục truyền thống đặc trưng và độc đáo riêng của mình. Dân tộc Thái Đen ở Tuần Giao, Điện Biên vẫn còn lưu giữ được những nét riêng đó, góp phần tạo nên một bức tranh tổng thể, đa sắc màu cho Đại gia đình 54 dân tộc anh em trên toàn đất nước Việt Nam.

Cho tới ngày nay, người Thái Đen vẫn còn lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc.

Người Thái Đen ở Tuần Giáo sinh sống như thế nào?

Người Thái sống quây quần theo từng bản làng, mỗi bản có khoảng 30-80 nóc nhà kề nhau. Họ sống chủ yếu bằng trồng lúa nước, lúa nương và chăn nuôi lợn, gà, trâu, bò… hoặc đi làm thêm, đi kiếm củi. Ở đây hầu như mọi nhà đều tự nấu rượu ngô, rượu sắn để phục vụ gia đình mình và bán kiếm thêm thu nhập.

Trang phục phụ nữ Thái đen

Phụ nữ Thái đen có bộ trang phục rất duyên dáng, áo cóm bó sát người, váy đen dài chấm gót, đầu đội khăn piêu.

Nét văn hoá của dân tộc Thái Đen ở Tuần Giáo, Điện Biên

Người con gái Thái khi về nhà chồng phải chuẩn bị đủ 20 chiếc khăn piêu và chăn bông để biếu gia đình và họ hàng nhà chồng. Phụ nữ có chồng phải vấn tóc cao trên đỉnh đầu gọi là tằng cẩu. Điều này vừa để phân biệt được người con gái đã có chồng hay chưa, vừa thể hiện sự thủy chung của người phụ nữ đó với chồng.

Tục thờ cúng tổ tiên của người Thái đen ở Tuần Giáo

Người Thái Đen thường làm nhà sàn gỗ 5 hoặc 3 gian tùy theo điều kiện của từng gia đình. Các gian giữa được dùng làm phòng ngủ, cách nhau bởi các tấm rido căng dây lên các cột nhà. Hai gian bên ngoài cùng đầu đốc nhà thì dùng làm bếp đun nấu, bên còn lại dùng để đặt bàn thờ thờ cúng ông bà, tổ tiên.

”Pa-tong” là một trong những nghi lễ thờ cúng để tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên. Theo lịch của người Thái cứ 10 ngày họ lại làm cơm cúng một lần và chỉ những dòng họ lớn, danh giá mới được làm pa-tông. Ngày mất của bậc bề trên nhất trong họ sẽ được chọn để làm ngày giỗ chung cho cả dòng họ. Bà con thường đồ xôi, nướng cá, nướng thịt hoặc mổ gà và thêm đĩa rau hay đĩa măng để đặt lên bàn thờ. Trong những ngày này mọi người phải giữ yên lặng, không được làm ầm ĩ, không được bật loa đài to. Phận dâu hoặc con gái đã đi lấy chồng thì không được làm cơm cúng, kiêng đi lại gần chỗ thờ cúng.

Đối với những gia đình duy tâm hoặc có người hay ốm đau thì họ thường làm thêm một ban thờ nhỏ ngoài nhà để thờ cúng ma đói ma khát, ma lang thang. Vào những ngày mùng một, ngày rằm, hay khi trong nhà có người ốm đau họ thường thắp hương, bày hoa quả, bánh kẹo để cúng các ma với hi vọng những hồn ma sẽ không quấy rầy gia đình, phù hộ cho gia đình được mạnh khỏe, làm ăn thuận lợi.

Tết của người Thái Đen ở Tuần Giáo

Ngày tết ở nơi đây có rất nhiều hoạt động đặc sắc. Trong những ngày này những người dân tộc Thái đen thường đi đến nhà nhau ngồi tụ tập uống rượu, hát đối đáp, múa xòe đến thâu đêm suốt sáng. Những chàng trai, cô gái Thái thì chọn cho mình bộ trang phục đẹp nhất để đi chơi ném còn, chơi đu quay, múa sạp…

Nét văn hoá của dân tộc Thái Đen ở Tuần Giáo, Điện Biên

Mỗi dân tộc đều có những nét phong tục truyền thống đặc trưng và độc đáo riêng của mình. Dân tộc Thái Đen ở Tuần Giao, Điện Biên vẫn còn lưu giữ được những nét riêng đó, góp phần tạo nên một bức tranh tổng thể, đa sắc màu cho Đại gia đình 54 dân tộc anh em trên toàn đất nước Việt Nam.

Văn hóa tâm linh

Lễ hội mừng năm mới – Chôl Chnam Thmây của dân tộc Khmer Nam Bộ

Chôl Chnăm Thmây là ngày Tết cổ truyền, lễ hội mừng năm mới của người Khmer Nam Bộ, được tổ chức từ ngày 12 đến 15/4 dương lịch hàng năm.

1432

Từ xa xưa, Chôl Chnăm Thmây đã trở thành ngày lễ hội truyền thống của dân tộc Khmer gắn liền với đạo Phật. Lễ hội này không những chỉ có ở Việt Nam mà còn có ở nhiều nước châu Á khác có đông người theo đạo Phật như Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar.

Chuẩn bị lễ hội Chôl Chnăm Thmây

Cũng như ngày Tết Nguyên đán, người Khmer vào dịp này thường mua sắm quần áo mới cho ông bà, con cái; quét dọn, làm sạch đẹp nhà cửa, chùa chiền, phun sóc và chuẩn bị thức ăn cho mấy ngày Tết như gạo, rau, cá, thịt và bánh trái. Vào ngày tết này, mọi công việc ruộng rẫy đều dừng lại, kể cả người giúp việc cũng được nghỉ ngơi để đi thăm bố mẹ, bạn bè. Trâu bò cũng được thả tự do.

Lễ hội mừng năm mới - Chôl Chnam Thmây của dân tộc Khmer Nam Bộ

Điều quan trọng nữa để chuẩn bị cho ngày Chôl Chnăm Thmây là người dân tu chỉnh bàn thờ Têvađa (Ông Thiên) ngay trước sân nhà và chuẩn bị các lễ vật như hoa, nến, cây nhang, cốm và nhiều loại trái cây thơm ngọt. Trước giờ đón năm mới, ông bà, cha mẹ tập hợp con cháu lại trước bàn thờ tổ tiên có đốt nhang và nến, chắp tay vái lên trời cầu xin Ông Thiên mới ban phúc lành và tụng niệm lạy Phật. Cùng với việc chuẩn bị bàn thờ, người Khmer cũng chuẩn bị dầu thơm, ống trúc để làm ống nước tắm Phật.

Đêm giao thừa của người Khmer

Ngày đầu Chôl Chnăm Thmây, tức đêm giao thừa, người Khmer đến chùa mời các sư tụng kinh để tiễn đưa Ông Thiên năm cũ, đón mừng Ông Thiên năm mới. Sáng hôm sau và các ngày kế tiếp, từ sáng đến trưa, tại chùa có lễ cúng dường cho các vị sư và làm lễ cầu siêu cho những người đã khuất vì dân, vì nước và vì sự phát triển nòi giống tổ tiên.

Các hoạt động diễn ra ngày Chôl Chnăm Thmây

Hấp dẫn và sôi nổi hơn là lễ đắp một ngàn mô hình tháp bằng đất cát hoặc bằng lúa. Sau đó là lễ bốc thăm thính cầu vị sư thuyết pháp cho đến 17 giờ. Ngày thứ ba là ngày Lơn Sắc, sau khi các vị sư dùng cơm Ngọ (không quá 12 giờ trong ngày) bắt đầu lễ tắm Phật tại chính điện (nước tắm Phật được pha nước thơm và có rắc hoa sen). Hai giờ chiều là tục cầu tại nơi chân tháp. Riêng gia đình nào còn lưu giữ hài cốt của người thân đã khuất thì tiếp tục mời các vị sư về nhà cầu siêu. Cùng thời điểm này là lễ tắm cho ông bà, cha mẹ, những người có công dạy bảo, gọi là lễ tạ ơn, xin được thứ lỗi và xin nhận những lời khuyên bảo tốt lành, có nhiều của cải và dồi dào sức khoẻ.

Lễ hội mừng năm mới - Chôl Chnam Thmây của dân tộc Khmer Nam Bộ

Bắt đầu từ ngày Chôl Chnăm Thmây, ban ngày, thanh niên nam nữ tổ chức các trò chơi truyền thống của dân tộc như ném còn, kéo co, đấu vật, đánh võ, đẩy cây, chạy đua, bơi lội. Vào ban đêm, có tổ chức múa hát diễn Rôbam (một loại kịch múa dân tộc, trong đó nữ đội mũ và nam cũng đội mũ nhưng có thêm bịt mặt) hoặc Dukê (một loại kịch hát dân tộc, tương tự như cải lương) ở tại chùa.

Ngày nay, ngoài những tục lệ trên, trước ngày Chôl Chnăm Thmây người Khmer còn có băng cờ, khẩu hiệu đón mừng năm mới. Báo chí, đài phát thanh và truyền hình tiếng Khmer có chương trình đặc biệt đón mừng năm mới hấp dẫn. Các lãnh đạo địa phương có thư chúc mừng Chôl Chnăm Thmây và tổ chức họp mặt nhân dân và sư sãi Khmer để ôn lại truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết giữa những người có đạo và những người không theo đạo trong một năm qua. Sau đó, nhiều đoàn lãnh đạo địa phương đã đi thăm viếng chùa và những gia đình thuộc diện chính sách là người Khmer.

Từ xa xưa, Chôl Chnăm Thmây đã trở thành ngày lễ hội truyền thống của dân tộc Khmer gắn liền với đạo Phật. Lễ hội này không những chỉ có ở Việt Nam mà còn có ở nhiều nước châu Á khác có đông người theo đạo Phật như Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar.

Chuẩn bị lễ hội Chôl Chnăm Thmây

Cũng như ngày Tết Nguyên đán, người Khmer vào dịp này thường mua sắm quần áo mới cho ông bà, con cái; quét dọn, làm sạch đẹp nhà cửa, chùa chiền, phun sóc và chuẩn bị thức ăn cho mấy ngày Tết như gạo, rau, cá, thịt và bánh trái. Vào ngày tết này, mọi công việc ruộng rẫy đều dừng lại, kể cả người giúp việc cũng được nghỉ ngơi để đi thăm bố mẹ, bạn bè. Trâu bò cũng được thả tự do.

Lễ hội mừng năm mới - Chôl Chnam Thmây của dân tộc Khmer Nam Bộ

Điều quan trọng nữa để chuẩn bị cho ngày Chôl Chnăm Thmây là người dân tu chỉnh bàn thờ Têvađa (Ông Thiên) ngay trước sân nhà và chuẩn bị các lễ vật như hoa, nến, cây nhang, cốm và nhiều loại trái cây thơm ngọt. Trước giờ đón năm mới, ông bà, cha mẹ tập hợp con cháu lại trước bàn thờ tổ tiên có đốt nhang và nến, chắp tay vái lên trời cầu xin Ông Thiên mới ban phúc lành và tụng niệm lạy Phật. Cùng với việc chuẩn bị bàn thờ, người Khmer cũng chuẩn bị dầu thơm, ống trúc để làm ống nước tắm Phật.

Đêm giao thừa của người Khmer

Ngày đầu Chôl Chnăm Thmây, tức đêm giao thừa, người Khmer đến chùa mời các sư tụng kinh để tiễn đưa Ông Thiên năm cũ, đón mừng Ông Thiên năm mới. Sáng hôm sau và các ngày kế tiếp, từ sáng đến trưa, tại chùa có lễ cúng dường cho các vị sư và làm lễ cầu siêu cho những người đã khuất vì dân, vì nước và vì sự phát triển nòi giống tổ tiên.

Các hoạt động diễn ra ngày Chôl Chnăm Thmây

Hấp dẫn và sôi nổi hơn là lễ đắp một ngàn mô hình tháp bằng đất cát hoặc bằng lúa. Sau đó là lễ bốc thăm thính cầu vị sư thuyết pháp cho đến 17 giờ. Ngày thứ ba là ngày Lơn Sắc, sau khi các vị sư dùng cơm Ngọ (không quá 12 giờ trong ngày) bắt đầu lễ tắm Phật tại chính điện (nước tắm Phật được pha nước thơm và có rắc hoa sen). Hai giờ chiều là tục cầu tại nơi chân tháp. Riêng gia đình nào còn lưu giữ hài cốt của người thân đã khuất thì tiếp tục mời các vị sư về nhà cầu siêu. Cùng thời điểm này là lễ tắm cho ông bà, cha mẹ, những người có công dạy bảo, gọi là lễ tạ ơn, xin được thứ lỗi và xin nhận những lời khuyên bảo tốt lành, có nhiều của cải và dồi dào sức khoẻ.

Lễ hội mừng năm mới - Chôl Chnam Thmây của dân tộc Khmer Nam Bộ

Bắt đầu từ ngày Chôl Chnăm Thmây, ban ngày, thanh niên nam nữ tổ chức các trò chơi truyền thống của dân tộc như ném còn, kéo co, đấu vật, đánh võ, đẩy cây, chạy đua, bơi lội. Vào ban đêm, có tổ chức múa hát diễn Rôbam (một loại kịch múa dân tộc, trong đó nữ đội mũ và nam cũng đội mũ nhưng có thêm bịt mặt) hoặc Dukê (một loại kịch hát dân tộc, tương tự như cải lương) ở tại chùa.

Ngày nay, ngoài những tục lệ trên, trước ngày Chôl Chnăm Thmây người Khmer còn có băng cờ, khẩu hiệu đón mừng năm mới. Báo chí, đài phát thanh và truyền hình tiếng Khmer có chương trình đặc biệt đón mừng năm mới hấp dẫn. Các lãnh đạo địa phương có thư chúc mừng Chôl Chnăm Thmây và tổ chức họp mặt nhân dân và sư sãi Khmer để ôn lại truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết giữa những người có đạo và những người không theo đạo trong một năm qua. Sau đó, nhiều đoàn lãnh đạo địa phương đã đi thăm viếng chùa và những gia đình thuộc diện chính sách là người Khmer.

Văn hóa tâm linh

Phong tục tập quán, lễ Tết của người Tày, Nùng

Trong đời sống văn hóa của người dân Tày, Nùng ở Cao Bằng thường có nhiều lễ hội, phong tục tập quán và lễ tết mang bản sắc riêng.

1463

Phong tục tập quán

Lễ ăn hỏi

Đây là dịp cho những nam nữ thanh niên gặp gỡ, giao lưu, thông qua những làn điệu dân ca, những trò chơi dân gian các đôi sẽ tự tìm cho mình đối tượng thích hợp. Khi tình yêu nảy nở đến độ chín muồi, các đôi sẽ có lễ ăn hỏi. Bước đầu tiên là lễ dạm ngõ, lễ vật mang sang nhà gái là một đôi gà trống thiến, gạo nếp, hai chai rượu ngon, hai bên gia đình bàn bạc thấy thuận lợi mới cho ăn hỏi. Việc chọn người đi ăn hỏi phải là người có tuổi, có uy tín, mẫu mực, nói năng trôi chảy, có đủ cả vợ chồng, và người này có thể thay mặt nhà trai bàn bạc và quyết định mọi việc với bên nhà gái. Lễ ăn hỏi thường là mâm xôi gà, rượu, bánh giầy. Buổi lễ hai bên cùng bàn bạc và thống nhất quyết định nhiều vấn đề quan trọng: số lễ vật cưới, của hồi môn, ngày cưới, giờ đón dâu… Sau lễ ăn hỏi cặp trai gái này tránh mặt nhau nhằm tránh những dị nghị không tốt.

Phong tục tập quán, lễ Tết của người Tày, Nùng

Lễ cưới

Lễ cưới thường được tổ chức từ tháng 8 đến tháng 2 âm lịch năm sau. Lễ cưới được tổ chức ở cả hai bên nhà trai nhà gái. Theo tục lệ trước ngày cưới vài hôm nhà trai thường mang đồ sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ nhất thiết phải có một mảnh vải tặng mẹ vợ, gọi là rằm khấư để tỏ lòng biết ơn công nuôi dưỡng của bà mẹ đối với con gái. Nhận tấm vải rằm khấư này người mẹ đem nhuộm và khi con gái sinh con đầu lòng sẽ làm cho cháu cái địu, cái tã. Đúng ngày giờ đã định, đoàn chú rẻ bắt đầu ra cửa đón dâu. Lễ vật sang đón gồm: mâm xôi gà, rượu, chè, thuốc, tiền phong bao, vải rằm khấư… Đoàn chú rể gồm 6 đến 8 người, có ông Quan lang đứng đầu, một Pả mẻ cùng với mấy bạn trai phù rể, ông Quan lang phải là người có tài ăn nói, đối đáp, giỏi thơ ca, thuộc nhiều bài Sli, Lượn. Pả mẻ cũng là người như vậy. Bên nhà gái cũng có một Pả mẻ đi đưa dâu. Người ta tin rằng những người đưa đón dâu có tốt thì đôi vợ chồng này mới gặp may mắn và hạnh phúc suốt đời.

Cây hoa báo hiếu

Cây hoa báo hiếu là một biểu tượng thiêng liêng, ý nghĩa trong cuộc sống tâm linh của người Tày, Nùng ở Cao Bằng. Khi trong gia đình có người mất, con cháu sẽ làm cây hoa báo hiếu để tưởng nhớ và thể hiện tình cảm với người đã khuất. Đây là một trong những phong tục độc đáo mà dân tộc Tày, Nùng ở Cao Bằng vẫn gìn giữ đến ngày nay.

Cây hoa báo hiếu thường được làm thủ công bằng tay với các nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên: tre, dây thép, dây chỉ, giấy màu và bột hồ thủ công. Một cây hoa báo hiếu gồm có ba tầng tượng trưng cho vòng đời của con người, đó là sinh ra, lớn lên và chết đi. Tầng một là mâm đế chân hoa, được làm chắc chắn bằng một miếng gỗ vuông tầm 25 – 30cm, và người Tày, Nùng quan niệm đây là tầng biểu thị cho nguồn cội, gốc rễ. Tầng hai là thân hoa với nhiều bông hoa giấy, chim muông màu sắc sặc sỡ kết thành từng dây treo xung quanh. Đây là tầng tái hiện cuộc sống sung túc, hòa hợp khi còn sống của mỗi người. Tầng trên cùng thường được dán giấy đỏ, cắt vẽ hình mặt trời và mặt trăng, thể hiện khát vọng sống của mỗi con người. Cây hoa báo hiếu là cách mỗi người biểu đạt tình cảm riêng đối với người đã khuất. Tùy vào từng vùng miền mà những họa tiết trên thân cây hoa sẽ được biến tấu để phù hợp với tín ngưỡng và phong tục.

Lễ hội

Hội tranh đầu pháo

Vào ngày 2 tháng 2 âm lịch hàng năm tại huyện Quảng Uyên, lễ hội pháo hoa được cộng đồng các dân tộc vùng Quảng Uyên và lân cận cùng nô nức chảy hội. Hội pháp hoa thể hiện tinh thần thượng võ, lôi cuốn các chàng trai khỏe mạnh từ các địa phương đến tham gia cướp đầu pháo với hy vọng giành được may mắn về cho người thân, địa phương mình. Đến với lễ hội pháo hoa của vùng đồng bào dân tộc Nùng, du khách sẽ được hòa mình vào không gian văn hóa vẫn còn mang đậm giá trị truyền thống thể hiện trên hoa văn trang phục người dân tộc, tham gia trải nghiệm quay lợn và thưởng thức các món xôi cẩm, ngũ sắc của vùng quê nơi đây.

Phong tục tập quán, lễ Tết của người Tày, Nùng

Hội Lồng Tồng

Thường tổ chức ở những bãi đất trống, rộng hoặc trên cánh đồng vừa thu hoạch. Thời gian thưởng tổ chức vào sau tết, sau vụ mùa bội thu, bà con dân tộc thường tổ chức các trò chơi dân gian: tung còn, rước rồng, múa kỳ lân, sư tử, tranh đầu pháo thăng thiên, hát sli lượn và có các ông tào, bà then đọc lời cầu nguyện…

Hội Thanh Minh

Được tổ chức tại xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên. Hội do dân tộc Nùng An khởi xướng và được tổ chức vào ngày thanh minh hàng năm có ý nghĩa cầu mùa cho bản, cầu phúc cho lứa đôi.

Các ngày lễ tết

Tết Đắp Nọi

Theo tiếng Tày có nghĩa là tết Nguyên đán nhỏ. Đồng bào ăn tết vào cuối tháng giêng âm lịch. Đây chính là cái tết tiễn đưa tháng giêng.

Tết Thanh Minh

Được tổ chức vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch, là ngày cả nhà hoặc cả họ đi sửa sang lại phần mộ của tổ tiên. Tảo mộ thể hiện lòng tưởng nhớ biết ơn công đức của người đã mất. Vì vậy, con cháu dù ở xa đều thu xếp để về tảo mộ tổ tiên.

Tết Đoan Ngọ

Tổ chức vào mùng 5 tháng 5 âm lịch, còn gọi là tết giết sâu bọ. Rượu nếp, bánh gio là những món ăn tiêu biểu, đặc biệt là các loại hoa quả đầu mùa.

Tết Rằm tháng bảy

Được tổ chức vào 15 tháng 7 âm lịch, là cái tết lớn thứ hai trong năm. Ngoài mục đích cúng tổ tiên, người Tày, Nùng còn coi đây là dịp cúng các vong hồn người không ai thờ cúng đề hồn khỏi quấy rầy, xui khiến nên những điều không hay. Tết rằm tháng 7 cũng là dịp để các đôi vợ chồng cùng con cái về thắp hương và về thăm bên ngoại (tiếng dân tộc gọi là Pây tái). Lễ vật sang bên ngoại thường là một đến hai con vịt, rượu, bánh dợm, bánh gai, hoa quả…

Phong tục tập quán

Lễ ăn hỏi

Đây là dịp cho những nam nữ thanh niên gặp gỡ, giao lưu, thông qua những làn điệu dân ca, những trò chơi dân gian các đôi sẽ tự tìm cho mình đối tượng thích hợp. Khi tình yêu nảy nở đến độ chín muồi, các đôi sẽ có lễ ăn hỏi. Bước đầu tiên là lễ dạm ngõ, lễ vật mang sang nhà gái là một đôi gà trống thiến, gạo nếp, hai chai rượu ngon, hai bên gia đình bàn bạc thấy thuận lợi mới cho ăn hỏi. Việc chọn người đi ăn hỏi phải là người có tuổi, có uy tín, mẫu mực, nói năng trôi chảy, có đủ cả vợ chồng, và người này có thể thay mặt nhà trai bàn bạc và quyết định mọi việc với bên nhà gái. Lễ ăn hỏi thường là mâm xôi gà, rượu, bánh giầy. Buổi lễ hai bên cùng bàn bạc và thống nhất quyết định nhiều vấn đề quan trọng: số lễ vật cưới, của hồi môn, ngày cưới, giờ đón dâu… Sau lễ ăn hỏi cặp trai gái này tránh mặt nhau nhằm tránh những dị nghị không tốt.

Phong tục tập quán, lễ Tết của người Tày, Nùng

Lễ cưới

Lễ cưới thường được tổ chức từ tháng 8 đến tháng 2 âm lịch năm sau. Lễ cưới được tổ chức ở cả hai bên nhà trai nhà gái. Theo tục lệ trước ngày cưới vài hôm nhà trai thường mang đồ sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ nhất thiết phải có một mảnh vải tặng mẹ vợ, gọi là rằm khấư để tỏ lòng biết ơn công nuôi dưỡng của bà mẹ đối với con gái. Nhận tấm vải rằm khấư này người mẹ đem nhuộm và khi con gái sinh con đầu lòng sẽ làm cho cháu cái địu, cái tã. Đúng ngày giờ đã định, đoàn chú rẻ bắt đầu ra cửa đón dâu. Lễ vật sang đón gồm: mâm xôi gà, rượu, chè, thuốc, tiền phong bao, vải rằm khấư… Đoàn chú rể gồm 6 đến 8 người, có ông Quan lang đứng đầu, một Pả mẻ cùng với mấy bạn trai phù rể, ông Quan lang phải là người có tài ăn nói, đối đáp, giỏi thơ ca, thuộc nhiều bài Sli, Lượn. Pả mẻ cũng là người như vậy. Bên nhà gái cũng có một Pả mẻ đi đưa dâu. Người ta tin rằng những người đưa đón dâu có tốt thì đôi vợ chồng này mới gặp may mắn và hạnh phúc suốt đời.

Cây hoa báo hiếu

Cây hoa báo hiếu là một biểu tượng thiêng liêng, ý nghĩa trong cuộc sống tâm linh của người Tày, Nùng ở Cao Bằng. Khi trong gia đình có người mất, con cháu sẽ làm cây hoa báo hiếu để tưởng nhớ và thể hiện tình cảm với người đã khuất. Đây là một trong những phong tục độc đáo mà dân tộc Tày, Nùng ở Cao Bằng vẫn gìn giữ đến ngày nay.

Cây hoa báo hiếu thường được làm thủ công bằng tay với các nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên: tre, dây thép, dây chỉ, giấy màu và bột hồ thủ công. Một cây hoa báo hiếu gồm có ba tầng tượng trưng cho vòng đời của con người, đó là sinh ra, lớn lên và chết đi. Tầng một là mâm đế chân hoa, được làm chắc chắn bằng một miếng gỗ vuông tầm 25 – 30cm, và người Tày, Nùng quan niệm đây là tầng biểu thị cho nguồn cội, gốc rễ. Tầng hai là thân hoa với nhiều bông hoa giấy, chim muông màu sắc sặc sỡ kết thành từng dây treo xung quanh. Đây là tầng tái hiện cuộc sống sung túc, hòa hợp khi còn sống của mỗi người. Tầng trên cùng thường được dán giấy đỏ, cắt vẽ hình mặt trời và mặt trăng, thể hiện khát vọng sống của mỗi con người. Cây hoa báo hiếu là cách mỗi người biểu đạt tình cảm riêng đối với người đã khuất. Tùy vào từng vùng miền mà những họa tiết trên thân cây hoa sẽ được biến tấu để phù hợp với tín ngưỡng và phong tục.

Lễ hội

Hội tranh đầu pháo

Vào ngày 2 tháng 2 âm lịch hàng năm tại huyện Quảng Uyên, lễ hội pháo hoa được cộng đồng các dân tộc vùng Quảng Uyên và lân cận cùng nô nức chảy hội. Hội pháp hoa thể hiện tinh thần thượng võ, lôi cuốn các chàng trai khỏe mạnh từ các địa phương đến tham gia cướp đầu pháo với hy vọng giành được may mắn về cho người thân, địa phương mình. Đến với lễ hội pháo hoa của vùng đồng bào dân tộc Nùng, du khách sẽ được hòa mình vào không gian văn hóa vẫn còn mang đậm giá trị truyền thống thể hiện trên hoa văn trang phục người dân tộc, tham gia trải nghiệm quay lợn và thưởng thức các món xôi cẩm, ngũ sắc của vùng quê nơi đây.

Phong tục tập quán, lễ Tết của người Tày, Nùng

Hội Lồng Tồng

Thường tổ chức ở những bãi đất trống, rộng hoặc trên cánh đồng vừa thu hoạch. Thời gian thưởng tổ chức vào sau tết, sau vụ mùa bội thu, bà con dân tộc thường tổ chức các trò chơi dân gian: tung còn, rước rồng, múa kỳ lân, sư tử, tranh đầu pháo thăng thiên, hát sli lượn và có các ông tào, bà then đọc lời cầu nguyện…

Hội Thanh Minh

Được tổ chức tại xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên. Hội do dân tộc Nùng An khởi xướng và được tổ chức vào ngày thanh minh hàng năm có ý nghĩa cầu mùa cho bản, cầu phúc cho lứa đôi.

Các ngày lễ tết

Tết Đắp Nọi

Theo tiếng Tày có nghĩa là tết Nguyên đán nhỏ. Đồng bào ăn tết vào cuối tháng giêng âm lịch. Đây chính là cái tết tiễn đưa tháng giêng.

Tết Thanh Minh

Được tổ chức vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch, là ngày cả nhà hoặc cả họ đi sửa sang lại phần mộ của tổ tiên. Tảo mộ thể hiện lòng tưởng nhớ biết ơn công đức của người đã mất. Vì vậy, con cháu dù ở xa đều thu xếp để về tảo mộ tổ tiên.

Tết Đoan Ngọ

Tổ chức vào mùng 5 tháng 5 âm lịch, còn gọi là tết giết sâu bọ. Rượu nếp, bánh gio là những món ăn tiêu biểu, đặc biệt là các loại hoa quả đầu mùa.

Tết Rằm tháng bảy

Được tổ chức vào 15 tháng 7 âm lịch, là cái tết lớn thứ hai trong năm. Ngoài mục đích cúng tổ tiên, người Tày, Nùng còn coi đây là dịp cúng các vong hồn người không ai thờ cúng đề hồn khỏi quấy rầy, xui khiến nên những điều không hay. Tết rằm tháng 7 cũng là dịp để các đôi vợ chồng cùng con cái về thắp hương và về thăm bên ngoại (tiếng dân tộc gọi là Pây tái). Lễ vật sang bên ngoại thường là một đến hai con vịt, rượu, bánh dợm, bánh gai, hoa quả…