Đền Dầm là nơi thờ Mẫu Thoải. Đền Dầm nằm trong cụm di tích tâm linh gồm Chùa Công Minh. Đền Mẫu Cửu, Đền Dầm nằm sát tường nhau và Đền Đại Lộ cách đó 200 mét.
Đây là một ngôi đền thiêng có từ thời nhà Trần. Đền đã được các đời Trần, Lê, Nguyễn sắc phong đến 28 lần (Trần triều 7 đạo, Lê triều 13 đạo, Nguyễn triều 8 đạo). Đây là một kỷ lục về sắc phong, khó có đền phủ nào được như vậy. Số lượng sắc phong này ngang với Phủ Tiên Hương – Nơi thờ của Mẫu Liễu Hạnh tại Phủ Dày.
Cách Đền Dầm khoảng 2 km tại xã Hồng Vân cũng có một ngôi đền thờ Mẫu Thoải đó là Đền Xâm Thị. Đền Xâm Thị có cùng tích về Mẫu Thoải tương tự như đền Dầm. Đây được coi là hai đền chính của Mẫu Thoải gắn với tích Mẫu Thoải hiển linh phù vua Trân Nhân Tông đánh giặc Nguyên.
Thần phả Đền Dầm
Thần phả Đền Dầm về Mẫu Thoải cũng không có gì khác nhiều với thần tích về Mẫu Thoải tại vùng Tuyên Quang. Tóm tắt thần phả về Mẫu Thoải tại đền Dầm như sau:
Vào thời kỳ sơ khai mở nước Văn Lang ta, trên thiên đình có nàng tiên nữ thứ 3 đến chầu thượng đế, chẳng may làm vỡ chén ngọc, trăm quan nghị tội, giáng xuống thủy cung làm con gái Thủy Quốc Động Đình Long Vương, sau gả cho Đô Đốc Côn Bằng đại tướng quân Kinh Xuyên. Vợ lẽ của Kinh Xuyên là Thảo Mai, thấy nàng tài sắc bèn đem lòng ghen ghét, giả làm 1 bức thư, tố cáo Kinh Xuyên vu nàng tư thông phản bội chồng. Kinh Xuyên giận dữ đầy nàng xuống trần thế, 10 năm sống ở núi Ngọc Hồ Kim Quy, làm bạn với chim muông cầm thú, sinh sống bằng hoa trái qua ngày. Một hôm thấy gió lướt mặt hồ, mây đùn lưng núi, tưởng nhớ quê nhà, thương cha nhớ mẹ, lòng buồn bã rối bời, nhân đó nàng ngâm 1 bài thơ rằng:
“Từ biệt Kinh Xuyên trải mấy thu
Trời xanh mây lượn nhớ quê nhà
Tiêu dao trần thế bao ngày tháng
Cố hương thủy quốc biết nao về.”
Tiếng ngâm chưa dứt mà dòng lệ chứa chan, tựa vào gốc cây, tinh thần mê man lúc say lúc tỉnh.
Lại nói thời ấy có 1 người ở xã Ngọc Lạp,huyện Thanh Miện, phủ Hồng Châu, đạo Hải Dương, họ Liễu, tên Nghị, là danh sĩ thời bấy giờ. Một hôm Nghị cùng 1 vài tên ra đồng chèo thuyền đến Ngọc hồ ngắm cảnh, để hưởng thú vị ngư ông. Thuyền đến hồ Kim Quy, bỗng nghe tiếng ngâm thơ văng vẳng, lời lẽ thảm thê, trong lòng lấy làm lạ, bèn nói với bọn ra đồng đi theo rằng: “Không biết thần tiên hay ma quỷ mà lại có lời lẽ thê thảm đến như vậy.” Ông bèn cho người dừng thuyền bên bờ quan sát thấy người con gái tuổi độ 18, mi xanh như liễu rủ, má thắm tựa hoa đào, dẫu tiên nữ ở cung trăng, hay phi tần nơi thượng giới, cũng không thể hơn được. Ông cười và bảo rằng:
– Cốt cách trần thế mà dáng vẻ thần tiên, may mắn nay gặp gỡ, nếu không phải là trăng rằm thì cũng là băng tuyết quy hòa nhập lại.
Nhân đó ông mới hỏi về nguồn gốc nguyên do, người con gái ứa lệ thưa rằng:”
– Thiếp vốn là con gái Động Đìng Quân là vợ của Kinh Xuyên, chẳng ngờ thiên xứ dáng họa vô cớ, nay may gặp ngưởi tốt ở đây, dám xin người có kế sách gì cứu giải oan khiên, thiếp nguyện thề có sông núi không quên ơn nghĩa.
Liễu Nghị lại hỏi:
– Dương gian thủy quốc cách biệt lấy gì mà nghe thấu được?
Nàng nói :
– Thiếp có một cây kim thoa trao cho ngài, cảm phiền đi đến bờ biển Đông Hải, hễ thấy cây Ngô Đồng thì cầm cây Trâm gõ vào ba tiếng tất thảy thủy cung sẽ đều nghe biết.
Nói xong nàng đứa một phong thư nói rõ sự việc rồi đưa thứ và cây Trâm cho Liễu Nghị. Sau khi từ biệt người đẹp Liễu Nghị gắng sức lên đường, qua bẩy ngày đêm đến cửa biển Đông Hải (nay là cửa Diêm Hộ huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình) bỗng thấy cây ngô đồng cổ thụ, ông làm đúng lời người con gái dặn, tay cầm kim thoa gõ vào gốc cây ngô đồng, bỗng thấy một con rắn trắng nổi lên khỏi mặt nước, Liễu Nghị đem sự việc trên nói với rắn, rắn trắng rẽ nước đưa ông về thủy phủ. Đến nơi ông vào bái yết Long Vương trình rõ sự việc và đem thư cùng trâm vàng dâng lên. Long Vương xem xong thư bèn truyền rắn trắng đưa Liễu Nghị về lầu Nam dọn tiệc khoản đãi. Ngay hôm đó truyền sai con trai là Xích Lân và quân thủy tiến thắng đến xứ Ngọc Hồ Kim Quy đón công chú về thủy quốc.
Ngày mùng 9 tháng Giêng vua Long Vương gả công chúa cho Liễu Nghị và phong làm Phò Mã Quốc Tể quận công đồng thời cho cùng ở thủy phủ với công chúa. Sai lục bộ thủy tề đầy Kinh Xuyên và Thảo Mai về Ngọc Hồ Kim Quy.
Lại nói từ khi công chúa về thủy quốc tất cả dân hai bên bờ sông Cái từ thượng nguồn nơi Ngọc Hồ Kim Quy đến hạ lưu Ba Lạt – Thái Bình đều mắc bệnh dịch. Dân chúng cùng quan lại bèn lập đàn cầu nguyện và dâng biểu lên Thượng đế. Trang Xâm Miện, xã Xâm Thị, huyện Thanh Đàm (nay là Xâm Dương, Ninh Sở, Thường Tín, Hà Nội) vào nửa đêm dân làng đều nghe thấy tiếng chó sủa liên hồi và mơ thấy một người con gái mình mặc áo trắng mang đai ngọc lưu ly ngự trên rồng vàng bay lên từ mặt nước nói rằng :
– Ta là con gái động đình Long Vương, Thủy Tinh Ngọc Dung Công Chúa, Thượng đế sắc phong cho ta giúp nước cứu dân cõi Nam Giao, nay dân chúng gặp tai họa ta phụng lênh thượng đế đến cứu giúp.
Sau được bình yên lên dựng miếu thờ viết thần vị thì ắt được nhân khang vật thịnh.
Trời sáng các vị bô lão cùng dân làng ai cũng nói có cùng giấc mơ như vậy, và bệnh tật dần tiêu tan hết. Dần làng bèn cùng nhau xây dựng ngoi miếu thờ hàng năm Quốc cầu, dân đảo đều linh ứng rõ rệt.
Thần tích về sự hiển linh của Mẫu Thoải giúp Trần Nhân Tông chống quân Nguyên Mông tại đền Dầm
Vào thời Trần Nhân Tông giặc Nguyên Mông xâm phạm bờ cõi nước ta, đức Vua mới ban búa Việt Cờ Mao cho Hưng Đạo Đại Vương tiết chết thủy lục chư binh chống giặc. Một lần, Hưng Đạo Đại Vương kéo quân qua Xâm Dương trời đà xẩm tối bèn cho quân sỹ thuyền bè neo đậu lại bên sông nghỉ lại.
Đương đêm bỗng thấy sóng nổi cát bay mây trời vần vũ, một chốc bống thấy mặt nước long lanh ánh bạc một người tiên nữ mặc áo trắng, đai lưu ly cưỡi rồng vàng bay lên mặt nước. Vương cả kinh nhưng tiên nữ bèn nói:
– Ta phụng mệnh thượng đế hộ quốc an dân, nay Quốc Công Tiết Chế hành quân qua đây xin âm phù giết giặc.
Quả nhiên ít lâu sau thuyền giặc kéo qua Xâm Dương thì bỗng dưng nổi sóng to gió lớn thuyền bè quân lương đều chìm cả, giặc chết vô số.
Các trận chiến trên Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương Đô, Đông Bộ Đầu….Đều có Thánh Mẫu linh phù làm sóng to gió lớn chìm tàu bè giặc chết đuối nhiều giúp quân ta thừa thắng.
Vận nước thái bình, triều đình luận tội phong công. Quốc Công bèn làm biểu tâu lên rõ sự việc linh phù ở Xâm Dương. Triều đình luận công Thánh Mẫu ban thưởng cho dân Xâm Dương tiền bạc xây dựng ngôi đền to lớn và ruộng đất để lo việc cúng tế hàng năm đồng thời sắc phong cho Thánh Mẫu.
Không gian kiến trúc Đền Dầm
Có thể nói, Đền Dầm là một ngôi đền cổ kính có từ xa xưa là một trong số ít các đền phủ vẫn còn giữ được vóc dáng kiến trúc cổ, ít bị pha tạp.
Đền rộng, kiến trúc cổ, cột gỗ và mái ngói cũ ngả màu thời gian cùng khuôn viên thoáng đãng.
Cổng Đền cao rộng, có ba cửa vào, sáu trụ xây, trên đắp nghê chầu, hoa văn, câu đối tỉ mỉ, tường đắp long mã, nhưng vắng nét cổ xưa. Vôi quét màu vàng, nâu theo lối bây giờ. Sân Đền khá rộng lát gạch. Bên trái chánh điện có gốc đa cổ thụ, theo tài liệu đã 800 năm. Gốc đa có nhiều rễ phụ biến thành gốc như cây đa Tây Thiên.
Chánh điện là một nếp nhà dài, mái ngói vảy cá thô dày (vảy cá xưa mỏng thanh hơn), cột gỗ sơn nâu, năm bậc cấp lên chánh điện láng xi măng. Trong Đền các hương án, bàn thờ đều chạm trổ rất công phu và đều sơn son thếp vàng.
Các triều vua kế tiếp đều có sắc phong cho đền. Nhân dân cũng không quên xây một miếu để thờ Hưng Đạo Vương ở nơi đây. Vì thế mà bên cạnh đền, không chỉ có miếu cô, miếu cậu còn có miếu thờ Trần Hưng Đạo.
Lễ hội Đền Dầm
Lễ hội chính của Đền Dầm kéo dài hai ngày từ mùng 5 đến mùng 7 tháng 2 âm lịch, nhưng thực tế lễ hội kéo dài 10 ngày từ mùng 1 đến hết ngày 10 tháng 2 hàng năm . Ngoài phần lễ thì phần hội có rước nước, múa rồng, múa sư tử, kéo chữ, cờ người, hát quan họ, chọi gà.