Ngày xửa ngày xưa, không biết từ đời nào, tương truyền ở tỉnh Hà Đông, có một nhà Phú ông nọ hay tu nhân tích đức đã nổi tiếng khắp vùng. Những người nghèo khổ thường đến xin ông bố thí đồng tiền bát gạo, những người có cha mẹ từ trần, mà túng bẫn quá, thường đến xin ông cấp cho quan tài, những người có cha mẹ vợ con đau yếu, không tiền chạy chữa, thường đến xin ông cấp cho đôi chút để cân thuốc thang. Cả những đứa trẻ mất cha, mất mẹ từ lúc nhỏ cũng được ông đón về nuôi nấng cùng cho đi học. Nghĩa là cả vùng đó ai có sự cần cấp là không quên đến gõ cửa nhà ông, mà chưa ai từng bị ra tay không bao giờ. Do đó, mà thời bấy giờ hễ nói đến hai chữ “Tích Đức” thì không ai không trỏ vào nhà ông. Cho nên hai chữ này sau trở thành tên riêng, khác nào cả dân chúng toàn vùng đã đặt cho ông vậy.
Một hôm, ông Tích Đức sau khi đi bố thí ở vùng lụt về, mệt quá ông ngồi xuống chiếc tràng kỷ đặt bên cạnh lối ra vào để nghĩ ngơi, bỗng chốc có 6 vật lạ, người chẳng ra người, ma chẳng phải ma, thấp thoáng đi lại chỗ ông ngồi, và cất tiếng rụt rè có ý cầu khẩn ông.
– Thưa ông, chúng tôi muốn lại nhờ ông dung nạp…
Ông liền hỏi một cách bâng quơ:
– Các bạn là ai? Có cần tôi việc gì xin cứ nói!
Lập tức trong hư vô có tiếng trả lời:
– Chúng tôi là Lục Tặc: Nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân, ý của Quốc vương hiện tại. Nhân vì giả thân tứ đại của Ngài sắp tan rã, nên chúng tôi phải tìm chỗ đầu thai để báo hiện thân Ngài. Bởi Ngài tuy có nghiệp căn tốt, nhưng hiện mắc 6 điều tham:
1. Mắt Ngài tham sắc, không lúc nào chán, cho nên bây giờ linh tính đó phải thác vào địa ngục Noãn sanh (do trứng nở ra) biến làm loài chim có lông đẹp khoác luôn vào mình để được thỏa mãn sự ngắm nghía.
2. Tai Ngài tham nghe đàn ca du dương, lời nói uyển chuyển nên bây giờ linh tính đó phải đọa vào địa ngục Thai sinh (do bào thai sinh ra) biến làm giống lừa, ngựa, chó, mèo có nhạc đeo ở cổ để thỏa mãn sự nghe.
3. Mũi Ngài tham ngửi mùi thơm cá thịt chiên xào, nên bây giờ linh tính đó phải đọa vào địa ngục thấp sinh (sinh dưới nước) biến làm cua, cá, lươn, tôm ở nơi đầy bùn dơ dáy hôi hám để thỏa mãn sự ngửi.
4. Lưỡi Ngài tham ăn các vị ngũ tân (hành, hẹ, tỏi, nén, hương cừ) nên bây giờ linh tính đó phải đọa vào địa ngục hóa sinh (thay lột nhiều lần mà sinh) biến làm muỗi rệp, gián, ve, rận, chí để được thỏa mãn sự hút máu tanh hôi.
5. Thân Ngài tham dâm dục, nên bây giờ linh tính đó phải đọa vào kiếp gà, vịt, ngỗng, ngang để được thỏa mãn sự giao cấu thư hùng.
6. Tâm Ngài châu báu, tiền của nên bây giờ linh tính đó phải đọa vào kiếp lạc đà, la, lừa cả ngày chỉ chuyên chở đồ vật vàng bạc trên lưng để thỏa mãn sự giàu có.
Nay chúng tôi thấy nhà ông đây có đức, thường đối xử tốt với các loài người lẫn loài vật, vả lại nhà ông có đủ mọi loài ở cạn cũng như ở dưới nước, dễ bề đầu thai cho cả 6 đức chúng tôi, nên chúng tôi đến cả đây nhờ ông dung nạp cho. Chúng tôi xin báo trước đêm mai, con lừa nhà ông đẻ, mà đứa con nó là linh tính tham tài cuả nhà Vua thác sinh vào. Vậy sinh ông lưu tâm. Bọn lục tặc nói đến đây, bỗng một cơn gió mạnh đập vào mành mành khiến ông tỉnh dậy, hóa ra giấc mơ.
Suốt ngày hôm sau, ông Tích Đức thắc mắc cửa tin, nửa ngờ về chuyện báo mộng, nên cứ trằn trọc tới nửa đêm vẫn chưa ngủ. Sịch có tên gia nhân thấy ông còn thức thì hối hả vào báo: “Lừa nái vừa sanh lừa con” lúc đó ông mới yên tâm tin là mộng đã báo đúng như sự thật. Tiếp luôn đến chiều hôm sau, có tin: Quốc Vương thăng hà vào khoảng nửa đêm hôm trước, đúng là lúc con lừa nhà ông đẻ, làm cho ông càng tin rằng quả có Lục Tặc đầu thai.
Từ đó trở đi, mỗi lần linh tính nào của nhà Vua đầu thai làm vật gì trong nhà ông, ông đều được báo trước cho biết. Ðến khi nhà Vua đầu thai hết 6 lần: Làm lừa, làm cá, làm chim, làm muỗi v.v… thì ông cũng vừa 80 tuổi.
Cách 3 năm sau, một hôm tại nhà cụ Tích Đức có thiết tiệc cơm chay long trọng cúng dường Chư Vị Hòa Thượng và Chư Tăng. Hôm đó, trên bàn thờ Phật đủ cả các lễ vật, hương hoa, lại có thêm một thứ bánh dẹp, hình vuông, gói trong lá chuối xanh, có buộc lạt đỏ mà xưa nay chưa từng thấy.
Khi cúng Phật xong, Chư Hòa Thượng và Chư Tăng vào thọ trai với tuần dâng hoa quả bánh trái, bỗng mọi người ngạc nhiên thấy thí chủ đem lên những đĩa bánh màu xanh như ngọc, chất mượt như tơ, khi bỏ vào miệng thấy có hương vị xông lên như hương lúa đồng mà chất bánh thì dẻo quánh càng nhai càng ngọt càng bùi. Thật là một thứ bánh đặc biệt.
Trong khi mọi người đang ca ngợi thưởng thức, thì Hòa Thượng cao tuổi nhất từ từ đứng lên hỏi thí chủ:
– Xin cho bần đạo và Chư Tăng biết thứ bánh quý nầy, thí chủ đã mua ở đâu và gọi tên là gì?
Thí Chủ – Cụ Tích Đức – trịnh trọng đứng lên, với giọng nói phào phào, cụ bạch rõ câu chuyện đã thuật ở trên, từ chỗ Lục Tặc đầu thai cho đến chỗ Quốc Vương thác sinh hết 6 kiếp, cụ nghỉ lấy hơi nói tiếp: Lần báo mộng cuối cùng Lục Tặc có nói cho biết rằng:
– Thể theo lời Quốc Vương lúc sắp thăng hà, có tỏ ý hối hận về lúc sống đã quá mắc phải 6 điều tham xúi bẩy nên phải trụy lạc luân hồi. Nay quyết sám hối tội lỗi và mong được biến hóa làm một vật gì vừa được giúp ích cho đời, vừa được gần Phật, nên chỉ anh em chúng tôi đã hóa làm giống nếp hương, hiện mọc tại cánh ruộng lúa nhà cụ. Vậy mong cụ cố gây giống lúa cho nhiều thêm rồi lưu tâm sáng chế thành thứ bánh dâng cúng Phật và Chư Tăng để cho Quốc vương sớm đoạn kiếp mà siêu sanh tịnh độ.
Do đó, cụ Tích Đức nói tiếp: “Già này không dám ngại công khó nhọc đã hết sức gây giống lúa ấy cùng chế ra thứ bánh này, lấy tên là bánh Cốm. Nghĩa là lúa còn non, để dâng Phật và cúng dường Chư Hòa Thượng và Chư Tăng ngày hôm nay, không ngờ lại được từ âm quá khen, thật là sung sướng cho già này không sao tả xiết! Mới hay tâm thành cũng thấu đến trời Phật”.
Cụ Tích Đức trình bày xong, các vị Hòa Thượng cùng Chư Tăng thảy đều hoan hỷ và cùng công nhận bánh cốm là sản phẩm quý báu của nước nhà đang đứng vào hàng trai phẩm cúng Phật.
Bắt đầu từ đó nước ta có bánh cốm ra đời. Sau nhân sự phổ biến ngày một rộng lớn, và nổi danh khắp nơi, nên đời mới đem bánh cốm dùng vào các lễ trọng của nhân dân như lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ cưới và cả đến lễ táng cũng dùng bánh cốm thay cho bánh dầy, bánh chưng.