Là vị thần tối cao của Thoải phủ (một trong bốn phủ: Thiên – Địa – Nhạc – Thoải), ông được thờ phụng khắp các khu vực sông nước với nhiều sự linh thiêng của bậc Thượng đẳng thần.
Quan Lớn Đệ Tam là ai?
Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ hay còn gọi là Thái tử Đệ Tam. Quan lớn vốn là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha yêu quý nên giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương.
Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Có thể coi ông là vị Quan Lớn tài danh hàng đầu. Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ (gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ…: tất cả đều màu trắng). Trong hàng quan lớn, vì danh tiếng bậc nhất nên Quan Lớn Đệ Tam cũng được lập đền thờ phụng ở khắp nơi.
Để ca ngợi tài đức, công lao của ông, văn hát:
“Giáp bạc bao phen rực lửa hồng
Xông pha trăm trận cũng như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với non sông
[…] Gươm thần ba thước tay ngang dọc
Tài dậy trời Tây, chí lấp bể Đông”
Giữa những lời văn dập dìu, khói hương nghi ngút tại khắp đền, phủ thờ Quan Lớn Đệ Tam, mỗi người đến đều chuẩn bị những mâm lễ màu trắng để cầu bình an sức khỏe. Có cụ đã 70, 80 cũng sai con cháu đưa đi lễ Quan vào dịp tháng 6 âm lịch như một cái lệ khó bỏ mà dân gian vẫn gọi tháng tiệc “Thoải phủ”.
Truyền thuyết Quan Lớn Đệ Tam
Đền Lảnh Giang (Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam), Xích Đằng (Hưng Yên) và nhiều ngôi đền cạnh sông nước đều thờ phụng vị nam thần thượng cổ: Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần (dân gian vẫn gọi Quan Lớn Đệ Tam).
Căn cứ vào thần tích “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” (sự tích ra đời một vị thuỷ thần triều vua Hùng) do Bát phẩm thư lại Nguyễn Hiền, tuân theo bản cũ triều trước, chép lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Thần tích đang được lưu giữ tại Đền Lảnh Giang (dân gian coi nơi thờ chính) như sau:
Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thụy Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà tuổi đã cao mà vẫn chưa sinh được một mụn con nối dõi. Một đêm trăng thanh gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực.
Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.
Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Lúc tỉnh dậy thì thấy mình nằm bên bờ sông và thuồng luồng đã bỏ đi.
Từ hôm đó nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc).
Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh.
Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao”. Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông.
Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.
Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:
Sinh là tướng, hóa là thần
Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời
Khi nào giặc dã khắp nơi
Bọn ta mới trở thành người thế gian
Tương truyền ba vị tướng thời Hùng Vương là con của Thủy Đế và nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông).
Hầu đồng Quan Đệ Tam – Nghệ sĩ Xuân Hinh hát văn
Đền Quan Lớn Đệ Tam ở đâu?
Hằng năm, dịp tháng 6 Âm lịch, người dân đổ về các ngôi đền như Lảnh Giang (Hà Nam), Xích Đằng (Hưng Yên) lễ bái đức Thượng Đẳng Thần Quan Lớn Đệ Tam để cầu gia sự bình yên, mùa màng bội thu, quốc thái dân an. Từ lâu những huyền tích về vị Thần này vẫn mang màu huyền bí với nhiều dị bản.
Có điển tích dân gian kể rằng, chỉ có một mình Quan Tam Phủ giáng trần vào nhà quý tộc dưới thời Hùng Vương, ông trở thành vị tướng quân thống lĩnh ba quân thuỷ lục. Trong một trận đánh, ông đã hy sinh, xác ông bị chém làm đôi, phần thượng thân (đầu) trôi dạt vào bãi sông thuộc làng Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, dân làng đã lập đền thờ tưởng nhớ ông.
Còn phần hạ thân (mình) dạt vào ven sông thuộc thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam, cũng được dân làng chôn cất và lập đền thờ tưởng nhớ, đó là đền Lảnh Giang hai bên bờ sông Lục Đầu. Đây được xem hai nơi thờ chính, được nhiều người biết đến cùng với nhiều ngôi đền ở Hà Nội, Phú Thọ, Lạng Sơn, Hải Phòng đều phụng thờ Quan lớn.
Một tư liệu khác về Quan, tại cung thờ quan lớn, có bức hoành phi “Thủy Đức Linh Trường” để ca ngợi công đức to lớn lưu truyền hậu thế của tôn thần. Nhưng thú vị hơn cả là bốn chữ đại tự trên cửa võng: “Thiếu hải uy linh”.
Rất nhiều người thắc mắc về hai chữ “Thiếu hải”, thực chất Thiếu hải là cách dùng từ cổ vô cùng ý nghĩa của tiền nhân. Như vậy “Thiếu hải uy linh” thực chất tiền nhân muốn ngầm chỉ về sự uy linh của vị thần tại Bể Đông, đây cũng là một căn cứ đầy thú vị khi ta nghiên cứu mối liên hệ và đồng nhất của vị tôn thần tại đền Lảnh Giang (quan lớn đệ tam của thoải phủ) với hình ảnh vị thượng thần Thổ Lệnh (được thờ tại rất nhiều nơi vùng Đồng bằng sông Hồng) và hình tướng vị Trung Thành Phổ Tế Đại Vương.
Tại đình Viên Châu, Cổ Đô, Ba Vì, Hà Nội, các vị thờ ở đình theo Thần tích ở Viên Châu chép là “quản trưởng đội thuyền rồng” tức Trưởng Lệnh (Quan Đệ Tam). Còn Thạch Khanh là Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh của Thoải phủ thì Thần tích ở Viên Châu chép là “tả hữu thủy quân tuần sông”. Thổ Lệnh và Thạch Khanh là 2 anh em, 2 vị tướng đã giúp vua cha Bát Hải Động Đình, đánh giặc Thục.
Trong câu chuyện thi nhảy qua sông của hai vị thần Bạch Hạc đã để lại dấu ấn đến nay, một vết chân trước đền Tam Giang và một gót chân tại Bến Gót, nay thuộc phường Bến Gót, thành phố Việt Trì. Nếu từ đền Tam Giang hay Bến Gót mà qua sông thì chính là vùng đất Viên Châu. Câu chuyện đều có dấu tích vị Thần được nàng Quý Nương sinh ra từ bọc trứng.
“Trăm cảnh nghìn cảnh không bằng bến Lảnh đò Mây”, hàng trăm người dân từ khắp nơi đổ về các nơi phụng thờ nhớ công ơn vị Thần thượng cổ với niềm mong mỏi tâm linh nơi của Thánh. Dù vẫn còn nhiều huyền tích nhưng thượng thần Thổ Lệnh, Quan Lớn Đệ Tam, ba anh em họ Phạm và câu chuyện nàng Quý Nương sinh ra bọc trứng đã ăn sâu tâm thức người dân, để hậu thế về sau khắp miền sông Lục Đầu, Tam Giang, Tranh Giang, Vị Thủy, Đà Giang đều có bóng dáng người anh hùng họ Phạm thời Hùng Triều.
Bản văn Quan Lớn Đệ Tam
Bản văn Quan Lớn Đệ Tam số 1:
Trịnh giang biên giành ngân lai láng
Đôi vầng hồng soi rạng nam minh
Con vua thủy quốc Động Đình
Đệ tam thái tử giáng sinh đền Rồng
Dọc:
Đức gồm vẹn thung dung hòa mặc
Bẩm sinh thành tư chất long nhan
Thỉnh mời thái tử thái tử vương quan
Phi phương diện mạo dung nhan khác thường
Hằng tấu đối thiên đường thủy phủ
Trấn nam minh quy đủ bốn phương
Ra uy chấp chính kỉ cương
Cầm cân nảy mực sửa sang cõi đời
Chốn long giai cầm quyền thay chúa
Phép màu quan tối tú tối linh
Lệnh truyền thủy bộ chư dinh
Sửa sang đai giáp chơi miền trần gian
Dâng một triền nhang lòng thành dâng một triền nhang
Tấu về thủy phủ các ban các tòa thiên đình cho tới diêm la
Thiên đình cho tới diêm la tấu vè thoải phủ vua cha động đình
Chốn ấy là chốn thủy cung
Phú:
Nhanh dâng một chuyện tâu thỉnh đức vương quan
Đệ tử con tiến văn đàn
Dâng sự tích đệ tam hoàng thái tử
Sơn xuyên dục tú “hà hải chung linh”(2)
Người con vua thoải quốc động đình
Sắc phong tặng vương quan hoàng thái tử
Văn thần cẩm tú võ tổng lược thao
Bẩm dung y diện mạo hồng hào
Ngôn trung chính tài cao quán cổ
Thơ:
Giáp bạc bao phen nhuộm đỏ hồng
Xông pha trăm trận dạ như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với núi sông
Xá lửng:
Chiếc thuyền lam nổi dòng Xích Bích
Đưa quân chèo du lịch bốn phương
Có phen tuần thú sông Thương
Trở ra tỉnh Bắc , Quế Dương, Lục Đầu
Có phen ngự sông Dâu sông Hát
Khi lên ghềnh xuống thác vui chơi
Có phen vào lạch ra khơi
Sai quân lấy gỗ xoan đào chò hoa
Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc
Bạn tiên ngồi đàn hát vui chơi
Dạo xem phong cảnh mọi nơi
Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người
Có phen chơi cửa đài cửa bích
Khi ra khơi vào lạch thảnh thơi
Thuyền rồng trăm chiếc chèo bơi
Dọc ngang Tuần Lảnh là nơi đi về
Trải giang khê lên ngàn xuống bể
Lảnh Giang từ quý địa danh lam
Đền thờ quan tam tía kiệu vàng
Long môn hổ bàn thạch bàn uy nghi
Hóa tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về thủy quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang
Khắp sông Thương , sông Thao , sông Cả
Kéo quân về đóng ngã ba Tranh
Xướng ca đàn hát tập tành
Thi ngâm phú đọc đàn tranh chơi bời
Có phen lại về nơi thủy phủ
Đóng cân đai áo mũ vào tâu
Dăm ba đồng tử theo hầu
Vào tâu Vương phụ ra chầu Mẫu vương
Cũng có khi phi thường biến hóa
Qua Nghệ An thượng hạ đại giang
Thuyền rồng chèo quế buồm lan
Khi chơi Tô Lịch khi sang sông Cầu
Có phen ngự Nam lâu Bắc điện
Trở ra về đến huyện Thiên Tôn
Dạo miền thác cái thác con
Khi chơi sông Hát khi sang sông Bờ
Dạo thẩn thơ Tản Viên Tam Đảo
Truyền chư quân đôi đạo tiên phong
Chuông kêu cờ phất trống dong
Bè sau thuyền trước giữa dòng lênh đênh
Trống cầm canh chiêng vang anh ỏi
Lốt xanh vàng chìm nổi dư muôn
Triều thần văn vũ bách quan
Sai lên đón rước vương quan về chầu
Trên các lầu thơ ngâm phú đọc
Ngoài sân rồng ca chúc chén tiên
Vua cha giá ngự ngai vàng
Phán đòi thái tử vương quan vào chầu
Ngự giờ lâu phán lời nhân thứ
Sai ông lên cứu trợ trần gian
Một tay thái tử vương quan
Cứu sinh cũng lắm đọ oan cũng nhiều
Nay ông đã về chầu nhân đức
Độ nhân gian vạn ức siêu sinh
Nay ông về chốn thủy đình
Cuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.
Bản văn Quan Lớn Đệ Tam số 2:
Giáp bạc bao phen rực lửa hồng
Sông pha trăm trận vẫn như không
Ra tay cứu nước khi nguy biến
Tiếng để ngàn thu với núi sông
Trịnh giang biên doành ngân sở bắc
Nguyệt lầu lầu soi khắp nam minh
Con vua thủy quốc Động Đình
Đệ tam thái tử giáng sinh đền Rồng
Tài gồm vẹn thung dung hòa mặc
Bẩm sinh thành tư chất long nhan
Thỉnh mời hoàng tử vương quan
Phi phương diện mạo dung nhan khác thường
Hằng tấu đối thiên đường thủy phủ
Chốn nam minh quy củ bốn phương
Ra tay chấp chính kỉ cương
Trần thế sửa sang cõi đời
Chốn long giai cầm quyền thay chúa
Phép màu quan tối tú tối linh
Lệnh truyền thủy bộ chư dinh
Binh tề binh giáp dạo miền trần gian
Chiếc thuyền lan nổi dòng Xích Bích
Đua mái chèo du lịch bốn phương
Có phen chơi ngọn sông Thương
Trở về tỉnh Bắc , Quế Dương, Lục Đầu
Có phen ngự sông Dâu sông Hát
Khi lên ghềnh xuống thác vui chơi
Có phen ra lạch vào ngòi
Sai quân lấy gỗ xoan đào chò hoa
Kéo quân về ngã ba tuần hạc
Bạn loan ngồi đàn hát vui chơi
Có phen dạo khắp mọi nơi
Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người
Có phen chơi cửa đài cửa bích
Lại ra dòng vào lạch thảnh thơi
Thuyền rồng trăm mái chèo chơi
Dọc ngang sông tuần Lảnh là nơi đi về
Trải giang khê lên ngàn xuống biển
Lảnh Giang từ quý địa danh lam
Đền thờ tán bạc kiệu vàng
Long chầu hổ phục thạch bàn uy nghi
Hóa tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về thủy quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Truyền quân dâng nước phép thì ai đang
Khắp sông Thương, sông Thao , sông Cả
Giở ra về đến ngã ba Tranh
Xướng ca đàn hát tập tành
Thơ ngâm phú đọc đàn tranh chơi bời
Có phen lại về nơi thủy phủ
Dóng cân đai áo mũ vào tâu
Dăm ba đồng tử theo hầu
Vào cung Vương phụ ra chầu Mẫu vương
Cũng có phen phi phương biến hóa
Vào Nghệ An thượng hạ quân quan
Thuyền rồng chèo quế buồm lan
Khi chơi sông Cả khi sang nước người
Có phen chơi Nam lâu Bắc điện
Quan lớn trở ra về đến huyện Thiên Tôn
Dạo chơi thác cái ghềnh con
Khi chơi sông Trẩy khi sang sông Bờ
Dạo thẩn thơ Tản Viên Tam Đảo
Truyền chư quân đôi đạo tiên phong
Chiêng kêu cờ phất trống dong
Bè sau thuyền trước giữa dòng lênh đênh
Có phen về nam minh thủy phủ
Ngự thạch bàn thong thả gieo câu
Lại chơi roành thảo vực sâu
Mười hai cửa bể thu mầu quan lớn dong chơi
Có phen lại chầu nơi thượng đế
Đội mũ rồng tựa thể ngư long
Về dưới thủy cung thôi chầu
Nước rẽ đôi dòng biếc biếc xanh xanh
Trống cầm canh chiêng vàng anh ỏi
Lốt xanh vàng chìm nổi dư muôn
Triều thần văn võ bách quan
Sai lên đón rước vương quan về chầu
Trên các lầu thơ ngâm phú đọc
Ngoài sân trình ca khúc tâu lên
Động đình vương mẫu ban khen
Phán đòi hoàng tử ra bến đứng hấu
Ngự giờ lâu phán lời nhân thứ
Kip sai lên cứu trợ trần gian
Một tay đức hoàng tử Đệ Tam
Cứu sinh cũng lắm độ oan cũng nhiều
Sớm quan đã về chầu nhân đức
Độ nhân gian vạn ức siêu sinh
Thôi chầu thoát xuống thủy đình
Phù hộ nam việt khang ninh thọ trường
Bản văn Quan Lớn Đệ Tam số 3:
Nhang một triện tấu thỉnh vương quan
Đệ tử nay dâng tiến văn đàn
Dẫn sự tích thánh hoàng tam phủ.
Sơn xuyên dục tú hà hải chung linh
Ngài con vua thoải quốc động đình
Sắc phong tặng Đệ Tam hoàng thái tử.
Văn thần cẩm tú võ tổng lược thao
Bẩm dung nghi diện mạo hường hào
Ngôn trung chính tài cao quán cổ.
Tam thiên vũ trụ thập bát hải môn
Đức dung nghi sánh ví càn khôn
Tài thao lược vang lừng tứ hải
Gần xa kính vái ngự cảnh bồng lai
Câu thơ thần phú đọc khoan thai
Chén rượu thánh cờ tiên dong dả
Nhân ngày khánh hạ yến mở trường sinh
Bài ban ban khắp hết thiên đình
Sân đan quế tiêu thiều nhạc vũ
Văn thần võ sĩ ngọc nữ tiên phi
Tòa Lảnh Giang phượng múa nghê quỳ
Trên bảo điện thiên nhan chỉ xích
Nguy nguy đãng đãng hách hách dương dương
Thoang thoảng đưa nhang xạ ngát hương
Hây hẩy nức yến chi tô hợp
Thông minh chính trực đức đại hiếu sinh
Sắc rồng ban coi trấn nam minh
Chức đã được quyền hành nhất thống
Thơ:
Giáp bạt bao phen,rực lửa hồng
Xông pha trăm trận cũng như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu rực núi sông
Gươm thần ba thước tay ngang dọc
Chí dậy trời tây lấp bể đông
Trấn Lảnh Giang đệ tam xưng thần
Toà thuỷ tộc vương quan tích mệnh
Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy
Sóng bạc đầu nước cuộn mênh mông
Rước Quan về cho tới thuỷ cung
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan