Đình Vẽ hay đình Đông Ngạc được công nhận là di tích lịch sử quốc gia vào năm 1993.
Làng Đông Ngạc
Đông Ngạc là một trong những làng cổ nhất Hà Nội. Đình làng Đông Ngạc đã tồn tại hơn 500 năm, đến nay vẫn lưu giữ được nhiều nét văn hóa đặc trưng của người Hà Nội, xứng danh với câu ca “Đất Kẻ Giàn, quan Kẻ Vẽ”.
Làng Đông Ngạc được xem là đắc địa, vượng khí nên rất nổi tiếng về truyền thống khoa bảng. Tính từ khi cụ Phan Phu Tiên khai khoa cho làng, đỗ tiến sĩ khoa Bính Tý năm 1396 dưới triều Vua Trần Thuận Tông, đến thời Nguyễn, làng Ðông Ngạc đã có 25 người đỗ đại khoa (tiến sĩ trở lên) và được gọi là làng khoa bảng là vì thế.
Lịch sử đình Vẽ – Đông Ngạc
Tương truyền đình được xây dựng từ một ngôi miếu cổ, có từ thời nước ta còn chịu ách đô hộ của nhà Đường (Trung Quốc). Theo tấm bia trong đình có niên đại Dương Hoà nguyên niên (1635) cho biết, đình được xây dựng lại trên nền cũ, sau đó đến năm Mậu Tuất (1781) có tu sửa thêm. Đình tiếp tục được trùng tu tôn tạo dưới thời Lê Cảnh Hưng và thời Minh Mạng.
Đình Đông Ngạc thờ 3 vị Thành hoàng làng là Độc Cước, Lê Khôi (cháu gọi Lê Lợi bằng bác), có công dẹp giặc Minh, đánh tan giặc Chiêm Thành và một vị thổ thần, được ghi trong sắc phong là “Bảo vệ Chương Hòa đốn ngưng thổ địa hiển chưng chí thần”; ngoài ra, đình còn thờ tiến sĩ Phạm Quang Dung là người làng có công đứng ra trùng tu đình năm 1718 và Phạm Thọ Lý, người đã cung tiến đất làm đình lần đầu năm 1635.
Tiền thân của đình là một ngôi miếu cổ dựng từ thời nhà Đường sang đô hộ nước ta và đã được trùng tu nhiều lần qua các văn bia ghi vào các năm 1635, 1653, 1718, 1836, 1941…
Kiến trúc đình Vẽ – Đông Ngạc
Đình Đông Ngạc được xây dựng trên một khu đất rộng phía trước là một hồ sen lớn rồi đến cổng tam quan ngoại.
Qua cổng tam quan ngoại xuống 11 bậc gạch tới một sân, hai bên có hai giếng nước trồng sen, tiếp sau là cổng tam quan nội rồi đến một khoảng sân rộng lát gạch, hai bên sân là hai dãy tả hữu mạc. Trong nhà tả mạc có 6 tấm bia.
Hết sân trong là đến khu kiến trúc chính của đình gồm tòa đại bái và hậu cung ẩn hiện dưới các vòm cây cổ thụ xanh tươi bốn mùa.
Tòa đại bái có hai nếp nhà xếp hình chữ “Nhị”. Nếp nhà ngoài có mái lợp ngói mũi hài cổ. Gian giữa có 2 con hạc thờ cùng 2 bộ lỗ bộ 16 chiếc vũ khí. Nếp nhà phía trong được nối với với nếp nhà ngoài và bày kiệu rước, long đình, nhang án, sập thờ.
Trong hậu cung có đặt hương án, long ngai và bài vị thành hoàng làng.
Hệ thống di vật tồn tại trong nội thất đình Đông Ngạc phong phú, đa dạng và hiếm quý.
Ngoài 8 tấm bia đá có các niên đại Lê Trung Hưng và Nguyễn, 1 cuốn ngọc phả, 45 đạo sắc phong (với các niên đại 1670, 1789, 1924…), nội thất đình còn bao gồm 1 quả chuông đồng đúc năm 1833, 2 bộ bát bửu, 1 biểu tượng tay cầm bút lông và 1 biểu tượng tay cầm nòng lửa.
Đình Đông Ngạc còn lưu giữ 1 đôi hạc thờ cao 2 m, 1 bộ ngũ sự, 3 cỗ kiệu bát cống, 1 cỗ kiệu võng, 1 long đình, 6 hoành phi, 24 câu đối, 1 kiệu rước thần mía, 2 hương án, 1 sập thờ, 3 long ngai, 48 bức tranh trên ván gỗ (mỗi bức tranh đều có kèm 1 bài thơ), 3 bộ triều phục và nhiều đồ thờ khác.
Lễ hội đình Vẽ – Đông Ngạc
Hằng năm, đình làng Vẽ tổ chức lễ hội vào tháng Hai âm lịch, rất trọng thể, trang nghiêm. Ngày mồng 9 diễn tập duyệt đội mũ, tối làm lễ nhập tịch. Ngày mồng 10 rước chính thức. Bốn cỗ kiệu nối tiếp nhau rước nước từ sông Hồng, rước hương án, rước long đình. Chân kiệu gồm 120 chàng trai cô gái, áo màu rực rỡ, đi đứng nhịp nhàng theo hiệu trống, chiêng, tù và. Đồ tế lễ là thủ lợn, xôi, gà, hoa quả.
Trong số các nghi lễ diễn ra trong ngày lễ có tục dâng lễ vật bằng những cây mía tím, lá còn xanh nguyên. Đám rước đi từ đình qua đê, rẽ vào chùa Tự Khánh rồi quay về, dài chừng 1000m. Người trên đê từ làng Chèm, làng Bạc, làng Gạ, làng Bỏi… về dự rất đông vui, nhộn nhịp.
Ngoài những trò chơi như cờ bỏi, chọi gà, đánh đu, bịt mắt bắt dê… còn có thả thơ, một nét đặc sắc của làng Vẽ văn hiến. Đó cũng là một trong những nét tiêu biểu đại diện cho văn hiến Thăng Long.