Quan Lớn Đệ Bát ở Thái Bình

Quan Lớn Đệ Bát (còn được gọi là Quan Lớn Đệ Bát Đồng Bằng Sông Diêm) nằm trong hàng Lục Phủ Tôn Ông, ngay trước Quan Lớn Đệ Thập Triệu Tường.

MỤC LỤC BÀI VIẾT

Bậc Hội Đồng Quan Lớn Tứ Phủ được phân ra làm 2 bậc nhỏ hơn là Ngũ Vị Tôn Ông và Lục Phủ Tôn Ông. Trong đó, Ngũ Vị Tôn Ông gồm các vị Quan lớn từ Quan Lớn Thượng đến Quan Đệ Ngũ. Lục Phủ Tôn Ông gồm các vị Quan Lớn từ Quan Lớn Đệ Lục đến Quan Đệ Thập Triệu Tường.

Quan Lớn Đệ Bát là ai?

Theo truyền thuyết dân gian, Quan Lớn Đệ Bát hay Quan Đệ Bát là vị tướng thứ 8 của Vua Cha Bát Hải Động Đình thời Hùng Duệ Vương thứ 18. Ông đã có công lớn, giúp Đức Vua Cha luyện binh mã thủy lục, giành nhiều thắng lợi chống giặc xâm lược trên tám cửa biển nước Nam.

Về truyền thuyết giáng trần của ông, hiện chưa có tài liệu chính thống nào khẳng định ông giáng trần dưới thân phận là ai. Tuy nhiên, có một giả thiết cho rằng Quan Lớn Đệ Bát giáng thế thành Thống Chế Điều Bát vào thế kỷ 18.

Quan Lớn Đệ Bát ở Thái Bình

Đền thờ Quan Lớn Đệ Bát

Quan Lớn Đệ Bát giáng thế thành Thống Chế Điều Bát

Theo giả thiết này, Quan Đệ Bát giáng thế thành Thống Chế Điều Bát Nguyễn Văn Tồn là một vị tướng và là khai hoang nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông đã có công lớn trong việc giúp Thoại Ngọc Hầu chỉ huy quân dân đào kinh Vĩnh Tế (Châu Đốc, An Giang) và giúp dân nhiều vùng trong tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh khai khẩn đất hoang, thành lập nhiều xóm làng.

Thống Chế Điều Bát Nguyễn Văn Tồn (1763 – 1820) có tên húy là Thạch Duồng hay Thạch Duông. Chính gốc ông là người Khmer sinh tại làng Nguyệt Lãng, xã Bình Phú, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh.

Cái tên Nguyễn Văn Tồn của ông là được chúa Nguyễn Ánh ban cho. Ban đầu ông được sung vào hàng dịch nô (người giúp việc phủ chúa). Do hết lòng tận tụy trung thành nên được chuyển làm Cai đội, từ đó ông cũng lập được nhiều công lớn nên càng được chúa quý mến.

Năm 1787, do quân Tây Sơn đuổi riết, ông cùng chúa Nguyễn chạy sang Vọng Các (bangkok). Năm sau ông trở về theo Lê Văn Quân đánh quân Tây Sơn ở bảo Ba Lai. Khi chúa Nguyễn Ánh về nước, ông lại được phân về Trà Vinh, Mân Thít đi chiêu mộ dân bình và được trao quyền làm Nội thuộc Cai đội thống quân đóng tại Cầu Kè, Trà Ôn. Tại đây, ông giúp đỡ nhân dân khai hoang trồng trọt, trồng cấy hoa màu.

Khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long đã phong cho ông làm Cai Cơ, Chưởng quản thủy quân doanh, đưa quân bản bộ về quê, trấn giữ đồn Uy Viễn (Trà Ôn). Tại đây, ông cai quản hai phủ là Trà Vinh và Mân Thít thuộc dinh Vĩnh Trấn. Ông tiếp tục lãnh đạo nhân dân mở đất, tạo lập làng xóm và giữ gìn an ninh biên giới Tây Nam.

Năm 1810, ông cùng Thoại Ngọc Hầu dẫn đại binh sang chiến đấu với quân Xiêm ở thành Lavek (Cao Miên). Thắng trận trở về, ông được cử ở lại Nam Vang và giúp đỡ vua Cao Miên. Năm 1811, ông được triệu về kinh và nhận ban thưởng. Đồng thời vua sắc phong cho ông làm Thống Chế, tước Dung Ngọc Hầu.

Năm 1813, ông về lại cai quản vùng Trà Ôn, Cầu Kè, Trà Vinh.

Năm 1819, ông được triều đình bổ nhiệm chức Điều bát nhung vụ, dẫn một đoàn binh Khmer khoảng 500 người đến Châu Đốc để cùng với Thoại Ngọc Hầu, Tuyên Trung Hầu lo đào kênh Vĩnh Tế.

Do lao tâm lao lực, ngày 4 tháng Giêng năm Canh Thìn (tức 27 tháng 2 năm 1820) ông mất tại Trà Ôn Vĩnh Long.

Tưởng thưởng công lao, năm 1928, vua Minh Mạng sắc phong cho ông là Trung đẳng thần, hàm ân Trung Dũng Thiên Trực, tước Dung Ngọc Hầu. Vợ của ông cũng được ban mỹ tự là Hiền Thục Chi Thần Thống Chế Đại Quan.

Đền Quan Đệ Bát

Đền Quan Đệ Bát hay còn được gọi là Đền Quan Đệ Bát Đồng Bằng Sông Diêm hay đền Bến. Ngôi đền nằm cách đền Đồng Bằng khoảng 550m về phía đông nam Cầu Vật.

Ngôi đền thường được biết đến với cái tên đền Trình của đền Đồng Bằng hơn là đền Quan Đệ Bát nên khi nhắc đến tên đền nhiều khách hành hương sẽ cảm thấy lạ lẫm.

Tương truyền, đền là nơi Đức Vua Cha đã luyện binh mã thủy lục, dưới thủy, trên bộ. Từ đời xưa đã có câu ca dao:

“Thượng từ Đồng Đống

Hạ về Cống Đôi”

Đền Quan Đệ Bát được xây dựng từ thời nhà Lý. Thời ấy, đền được mở rộng từ Đồng Đống về đến Cống Đôi nên đền Quan Đệ Bát cũng được đưa vào tứ ô cảnh (tức 4 cảnh đẹp của non sông Đại Việt).

Đền được xây dựng theo kiểu kiến trúc tiền chữ nhị hậu chữ đinh. Đến năm 1951, chiến tranh nổ ra khắp đất nước, đền bị phá hủy hoàn toàn. Năm 1996, nhân dân địa phương cùng quý khách thập phương hưng công xây lại khu đền xưa và giữ nguyên kiến trúc đến tận ngày nay.

Hầu giá Quan Đệ Bát

Quan Lớn Đệ Bát khi về đồng thường mặc áo vàng múa cờ lệnh. Giá hầu ông thường là sau giá hầu Ngũ Vị Tôn Ông và ngay sau giá Quan Điều Thất.

Tại đền thờ chính của ông là đền Trình của đền Đồng Bằng hay còn gọi là đền Quan Lớn Đệ Bát, những ai hầu giá tại đền đều phải hầu giá quan.

Dâng lễ Quan Lớn Đệ Bát

Đền Quan Lớn Đệ Bát là ngôi đền cổ nằm trong di tích đền Đồng Bằng nổi tiếng thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình.

Theo đó, một mâm lễ dâng Quan Lớn Đệ Bát gồm các thức lễ là một đĩa hoa, một đĩa quả gồm nhiều loại quả, một cơi trầu, quả cau, nén hương, cút rượu, xôi thịt, giấy tiền và một cánh sớ.

Bản văn Quan Lớn Đệ Bát

Chốn Long Đài mây tuôn năm vẻ

Cung Quảng Hàn bóng xế thềm loan

Trước làn gió thoảng đưa nhang

Ngai vàng lồ lộ long nhan lầu lầu

Đệ tử tôi khấu đầu tự sự

Tâu Động Đình hoàng tử long nhan

Khâm thừa thượng đế gia ban

Thỉnh mời đệ Bát tôn ông nhiệm màu

Khi lên chầu Ngọc Hoàng thượng đế

Lúc ra về Thủy Tế Long Cung

Có phen biến hóa thần thông

Lốt vàng chìm nổi Bể Đông dư nghìn

Lên Thượng Thiên cưỡi mây ngăn gió

Ngọn cờ đào thẳng trỏ đường tiên

Có phen chơi cảnh lê viên

Làu làu thu nguyệt soi bên giang hà

Khi thong thả bàn trà điểm nước

Họp bạn tiên tửu thuốc thi ngâm

Dập dìu hầu hạ dư trăm

Kẻ dâng khăn ngự người dâng xuyến ngà

Khi trắc giáng sa hà biến hóa

Ngự vân long sa mã trì khu

Vân cù cưỡi hạc ngao du

Biển Hồ đôi lúc non vu đôi lần

Bao thế giới mặc lòng thong thả

Cảnh giang hồ chi sá trần ai

Phiêu diêu tử phủ đan đài

Ba ngàn, chín vạn cõi ngoài tràng sinh

Lên thiên đình khâm thừa ngọc ấn

Chuyển uy hùng lĩnh ấn binh nhung

Tả ban văn tướng anh hùng

Hữu ban vũ tướng hội đồng dưới trên

Phó kim liên hiện hình biến tướng

Giá ngự đồng ngọc trước long nhan

Triều thần văn vũ bá quan

Thủy binh cơ đội lưỡng ban về chầu

Quân sắp hầu lưng đeo kiếm sắc

Tùy lệnh hành cờ phất trống rung

Có phen nổi trận đùng đùng

Ba đào dợn sóng mênh mông hải hà

Khi hiện ra tam đầu cửu vĩ

Dưới Thủy Tề nước rẽ làm đôi

Tự nhiên nổi trận phong lôi

Thấy trên mặt nước hiện đôi bạch xà

Lệnh truyền ra bất tuân thời khắc

Thét tiếng vang chớp dật mưa sa

Ngự thôi về chốn Diêm La

Vào chầu Bát Hải Vua Cha Động Đình

Trước long đình khoan thai lễ nhạc

Mão kim cương đai bạc xênh xang

Vào chầu Vương Phụ nghiêm trang

Vũ ban nhất phẩm văn ban tin dùng

Lệnh Cửu Trùng quyền trao chức sự

Giáng ngự về cứu tử độ sinh

Đêm ngày chầu chực thiên đình

Sổ son sổ mực đã tinh làu làu

Phút nam lâu lại chơi bắc điện

Phép thần thông biến hiện vô biên

Thảnh thơi kim mã ngọc đường

Nguy nguy tái thượng dương dương tại đền

Giáng ngự lên cứu sinh độ thế

Nương oai trời sửa trị quân sinh

Muôn năm thanh thả miếu đình

Có quan Đệ Bát Sông Diêm nhiệm màu

Tiếng oai linh dạy vang từ đấy

Ai kẻ còn dám lấy làm kinh

Cứu cho trần thế sinh linh

Hàng ma phục quái độ sinh nhiệm màu

Giáng bản đàn trừ tà trị bệnh

Phép anh linh hiển hách cứu nhân

Ra uy chí chính chí nhân

Soi gương khúc trực cầm cân công bình

Tấm lòng thành tùy tâm sở nguyện

Giáng phúc lành ứng hiện hà sa

Một nguyện phúc lộc đề đa

Trừ tai hạn ách tống ra hải ngoài

Thứ hai nguyện đinh tài hậu phát

Độ đồng gia kinh ngạc tranh vanh

Ba nguyện phú quý khang ninh

Cứu dân hộ quốc muôn đình thọ xuân.

Updated: 20/09/2021 — 10:40 chiều

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *