Đền Sái ở Thụy Lôi, Đông Anh, Hà Nội

Khu di tích đền Sái ở xã Thụy Lôi, huyện Đông Anh, Hà Nội là di tích lịch sử cấp quốc gia, được nhiều người biết đến.

MỤC LỤC BÀI VIẾT

Đền Sái đã được Nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử Nghệ thuật Kiến trúc ngày 27/01/1986.

Truyền thuyết đền Sái

Đền Sái nằm trên đỉnh ngọn Thất Diệu Sơn, giữa cánh đồng tiếp giáp với huyện Yên Phong (tỉnh Bắc Ninh), cách di tích Cổ Loa 15 km về phía Bắc.

Chuyện kể rằng: Bấy giờ, Thục Vương đắp thành ở đất Việt Thường rộng nghìn trượng, cuốn tròn như hình con ốc nên gọi Loa Thành. Thành cứ đắp xong lại đổ, vua lấy làm lo mới trai giới để khấn trời đất và thần sông núi rồi khởi công đắp lại. Vua hỏi nguyên cơ vì sao thành xây lại đổ nhiều lần, Rùa Vàng đáp đó là tinh khí của núi sông vùng này có con quỷ Bạch Kê tinh nấp trong núi Thất Diệu. Sau khi thần Kim Quy trợ giúp vua trừ diệt Bạch Kê Tinh, thành Cổ Loa mới xây xong. Tưởng nhớ công tích đó, nhà vua cho xây đền để thờ Huyền Thiên Trấn Vũ trên đỉnh núi Sái.

Theo truyền thuyết kể lại, các nàng tiên nữ được Ngọc Hoàng cử xuống gánh đất để xây thành cho nhà Thục. Khi họ gánh đất về đến đền Sái thì bị con Bạch Kê trêu chọc. Các nàng đã làm rơi đất ở đây, nên mọc dần lên 7 ngọn núi. Vì thế, những ngọn núi này có tên là Thất Diệu Sơn. Có lẽ, liên quan đến sự tích này, mà đến nay, vẫn có giếng trong vắt trên đỉnh núi, mà dân gian gọi là Giếng Cô Tiên. Hầu như quanh năm, mạch nước ngầm đưa về giếng, không bao giờ cạn. Dân viếng đền xong, đến đây, uống nước thần tiên, hy vọng mọi điều tốt lành sẽ tới.

Sử sách ghi: năm Thuận Thiên thứ hai 1011, vua Lý Công Uẩn, sau khi dời đô Hoa Lư về Thăng Long đã tìm về đền Sái. Vua Lý rất giỏi chữ Hán, phong thủy, ông biết được phương Bắc có ngôi chùa thờ quan Trấn Vũ rất linh thiêng. Vì thế, vua đã lên đền Sái làm lễ rước cờ hiệu, đưa đức Huyền Thiên Trấn Vũ về kinh đô Thăng Long. Cũng năm đó, vua Lý Công Uẩn cho người xây đền Quán Thánh bên Hồ Tây, không chỉ thuận lợi cho việc làm lễ thờ cúng mà còn để . Hiện đền Sái vẫn còn lệnh bài của vua Lý Công Uẩn: “Nay Trẫm lập thêm ngôi đền nữa, đầu hồ Cửa Bắc để thờ Người; rước duệ hiệu về nơi Kinh thờ cúng”.

Lại cũng truyền thuyết khác kể rằng, Lý Thái Tổ sau khi dời đô ra Thăng Long, đã đến núi Sái cầu Huyền Thiên và sinh được hoàng tử. Thấy công đức của Huyền Thiên rất to lớn, nhà vua đã cho xây đền Trấn Vũ (tức đền Quán Thánh) ở phía bắc kinh thành, và trở thành một trong Thăng Long tứ trấn. Đền Sái, nói cách khác là đền thờ gốc của đền Quán Thánh.

Kiến trúc đền Sái

Đền được xây dựng theo kiểu kiến trúc cổ “Tiền Thần hậu Phật”. Cổng đền cao chót vót; Tam quan có ba cửa chính và hai cửa phụ nên còn được gọi là ngũ môn quan.

Đền Sái ở Thụy Lôi, Đông Anh, Hà Nội

Tam Quan Đền Sái.

Người xưa khắc đôi câu đối:

“Lâu đài chiêm bái lòng ngưỡng vọng

Tam quan xã ngắm thấy cao vời”

Qua cổng Tam quan là tới gác chuông. Đây là một công trình đẹp, nhưng đã bị hủy hoại tư lâu, đến năm 1989 được khôi phục trùng tu. Trên gác treo quả chuông do dân làng Nhội đúc năm Thành Thái thứ 10 triều Nguyễn. Đặc biệt, nhà Kính Thiên, có kiến trúc độc đáo với tám mái chồng diêm. Chính giữa nhà Kính Thiên là tấm bia trụ “Huyền Thiên Đạo Quán”, dựng năm Chính Hoà Tân Tỵ (1701). Bốn mặt bia đều khắc chữ ca ngợi cảnh đẹp vùng núi Sái, lịch sử và công đức của thành Huyền Thiên Trấn Vũ. Trán bia có ba tầng hoa văn đặc sắc với hình hoa sen, gà trống chạm nổi, rất sinh động,và rắn thần vươn cổ, nghểnh đầu, đầy uy lực.

Đền Sái ở Thụy Lôi, Đông Anh, Hà Nội

Nhà tiền tế mới được trùng tu năm 1999. Trong hậu cung còn lưu giữ được nhiều cổ vật quý hiếm, mang dấu tích vào cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn. Phía sau đền Sái là chùa Thích Ca, nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Phía bên trái đền Sái có hòn núi nhỏ tên gọi là Châu Lai, trên đó có một ngôi đền toạ lạc, nhân dân gọi là đền Thượng, thờ thần Cao Sơn Đại Vương thời Hùng Vương.

Đền Sái ở Thụy Lôi, Đông Anh, Hà Nội

Phong cảnh ở khu vực đền cũng rất đẹp. Bao quanh khu đền là rừng cây xanh tươi với nhiều cổ thụ, ven con đường dẫn ra sau rừng cây là những viên đá với hình thù kỳ lạ, không biết có tự bao giờ.

Phía trước Nghi môn là sân trước đền, bao quanh bởi cánh đồng lúa. Chính giữa trục của sân trước đền có một bức đại tự bằng đá. Hai bên sân có hai ao hình tròn, có tên là Ao Tiên.

Đền Sái ở Thụy Lôi, Đông Anh, Hà Nội

Nghi môn đặt trên sườn đồi. Từ đường lên tới Nghi môn phải qua một hệ thống bậc với 15 bậc chính và hai dãy bậc nhỏ hai bên. Phân cách giữa dãy bậc chính và dãy bậc phụ hai bên là lan can đá chạm hình tượng rồng.

Nghi môn (Ngũ môn quan) đền Sái tạo thành một khối cổng có tới 5 lối ra vào. Khối cổng chính giữa tương tự như tam quan của các ngôi đình, đền khác với cổng chính rộng, mái chồng diêm 2 tầng, 8 mái. Phân chia 3 cổng là trụ tường, thân trụ có các ô câu đối.

Giới hạn hai bên của khối cổng chính là 2 trụ biểu mỗi bên. Hai trụ biểu phía ngoài, đỉnh trụ trang trí con nghê chầu; Hai trụ biểu phía trong, đỉnh trụ trang trí tứ phượng. Cả 4 trụ biểu có thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, phía dưới trang trí câu đối, đế thắt dạng cổ bồng. Giữa trụ biểu và cổng là mảng tường trang trí hình tượng voi. Hai cổng phụ hai bên nhỏ, có mái che. Rìa của cổng phụ cũng có 2 trụ biểu nhỏ, trang trí đơn giản.

Sân đền sau Nghi môn được chia thành nhiều bậc thềm, lên cao dần. Giữa các bậc thềm là hệ thống bậc cho người đi lại.

Đền Sái ở Thụy Lôi, Đông Anh, Hà Nội

Gác chuông nằm trên một bậc thềm cao, phía sau Nghi môn. Công trình 3 gian, 2 chái, cao 2 tầng, theo kiểu chồng diêm với 8 mái; bốn phía không có tường bao quanh; các cột chính bằng gỗ, riêng 4 cột góc xây gạch. Công trình mới được phục dựng lại từ năm 1989.

Tòa Kính Thiên nằm trên một bậc thềm cao hơn bậc thềm đặt Gác chuông, sát phía trước tòa Tiền tế. Công trình có mặt bằng hình vuông; mái chồng diêm; 2 tầng 8 mái; 4 cột trong bằng gỗ; 4 cột góc xây gạch.

Tòa Tiền tế đặt trên một bậc thềm cao hơn bậc thềm đặt tòa Kính Thiên. Công trình mới được trùng tu năm 1999, gồm 5 gian, 4 mái.

Chính điện đền Sái nằm kề liền tòa Tiền tế, có cấu trúc mặt bằng kiểu “chữ công” hay chữ H, gồm Tiền đường (Bái đường), Thiêu hương và Hậu cung (Chính ngự).

Tòa Tiền đường 5 gian, 4 mái, Hậu điện 3 gian, 4 mái, tòa Thiêu hương 1 gian đặt dọc nối liền tòa Tiền đường và Hậu cung.

Nền nhà Hậu cung vẫn còn lưu lại những viên gạch lát cổ, mặt gạch có dạng vân rồng.

Đền Sái ở Thụy Lôi, Đông Anh, Hà Nội

Phía sau Chính điện là nhà Phật, hay chùa Thích Ca. Công trình được xây dựng cùng thời với đền Sái, có mặt bằng hình “chữ đinh” hay chữ T, gồm tòa Bái đường 5 gian và tòa Hậu đường 2 gian.

Ngoài ra, phía sau đền Sái còn có các công trình thờ Mẫu Tam Phủ như nhà Mẫu, Lầu cô, Lầu cậu…

Phía Đông Bắc của đền Sái có giếng Tiên, là một hốc đá nằm bên trong một tảng đá chứa đầy nước.

Đền có nhiều đồ thờ cổ, tiêu biểu là cây hương đá, niên hiệu Chính Hoà (cuối thế kỉ XVII) và các viên gạch lát có vẽ vân rồng thời Lê.

Trong chùa còn lưu giữ được hệ thống tượng phật đẹp có giá trị. Ban thờ Hậu cung có tượng Huyền Thiên Trấn Vũ, là tượng đất, nhưng rất to lớn bề thế, cao 2,25m, đường kính 0,9m, một chân đạp lên lưng rùa, chân kia dẫm lên lưng con rắn. Phía sau tượng Huyền Thiên Trấn Vũ là các pho tượng hầu cận nhỏ hơn và bàn thờ thân phụ, thân mẫu của Ngài.

Lễ hội đền Sái

Có lẽ hiếm có ngôi làng nào, địa phương nào lại có nhiều “vua giả” như ở làng sái, làng Thụy Lôi, Đông Anh, Hà Nội. Bởi ở khu vực này hàng năm có một lễ hội cực kỳ đặc biệt và thu hút được hàng ngàn hàng vạn du khách thập phương tới xem và thưởng thức.

Cứ vào dịp ngày 11 tháng giêng âm lịch hàng năm, tại làng Thụy Lôi của xã Thụy Lâm huyện Đông Anh lại thu hút đông đảo bà con và nhân dân đến tham gia lễ hội Đền Sái. Trước đây lễ hội này đã từng bị gián đoạn, tuy nhiên đã được khôi phục lại toàn bộ kể từ năm 1989 và cho đến nay.

Lễ rước Vua

Công việc chuẩn bị rước “vua sống” có nhiều khâu, nhiều việc song việc quan trọng nhất là chọn “vua giả”, “công chúa giả” và các quan. Tập tục làng quy định các ông lão vào tuổi 55, ngày mồng 8 tết phải sửa hai mâm cỗ, mâm lớn dâng lên đền Sái, mâm nhỏ cúng thành hoàng làng. Mâm cỗ cúng thành hoàng sau đó được khao dân. Sau khi hoàn thành lệ làng người đó được gọi là quan thượng thính. Những người đã qua lễ thượng thính đến tuổi 60 được đóng làm quan “tứ trụ”.

Đền Sái ở Thụy Lôi, Đông Anh, Hà Nội

Quan tứ trụ gồm bốn người:

  • Quan trấn phủ là người trấn ải biên thùy hàng năm được triệu về bảo vệ vua đi bái yết thánh.
  • Quan tám lý là người được bàn bạc công việc lớn của triều đình
  • Quan đề lĩnh là người lĩnh ấn tiên phong thi hành nhiệm vụ
  • Quan tự vệ là người được đi sát nhà vua, vừa là người bảo vệ vua

Sau bốn năm làm quan mới được đóng làm chúa, vai chúa trước đây phải tự sắm lấy trang phục (thường là màu vàng), kiệu của công chúa không lộng lẫy bằng kiệu của vua.

Người được đóng làm vua phải là người khỏe mạnh, không dị tất (khâu chọn người này từ lúc người làm lễ thượng thính, qua các lần đóng làm quan và chúa). Người có độ tuổi 71 tự sắm lấy áo thụng, mũ cánh chuồn và một đôi hia, kiệu rước lộng lẫy sơn son thếp vàng.

Trong hội rước “vua giả” tất cả động tác, tình tiết đều nhằm diễn lại tích xưa, ấy là việc vua cùng đoàn tùy tùng về bái kiến đức thánh Huyền Thiên; vì vậy các ngôi thứ, võng lọng đều phỏng theo lối của triều đình.

Ngày 8 tháng Giêng, các quan tổ chức đi lễ ở các đền xung quanh đền Sái như đền Thủy, đền Trung, đền Thượng…

“Vua giả” phải lo nuôi một trâu, một lợn, “chúa giả” phải lo một bò, một lợn để sáng 11 làm lễ giết trâu, bò, lợn tế thánh sau đó khao dân làng. Khoảng 9 giờ sáng từ trong các ngõ không khí tưng bừng náo nhiệt, các dòng họ có người được chọn làm “vua”, “chúa”, “quan”, lần lượt rước kiệu, võng ra tập trung tại đầu làng để bắt đầu cuộc hành hương rước lễ đi bái yết đức thánh Huyền Thiên.

Trước khi màn rước “Vua” là lễ khênh kiệu từ đình làng về đền Sái với màn quay kiệu hừng hực khí thế và vui nhộn. Đám rước kiệu đi trong tiếng nhạc của phường bát âm và tiếng chiêng trống trầm hùng trang nghiêm.

Đi đầu đám rước là cờ, tiếp đến là kiệu chúa sau đó là kiệu vua có che tàn lọng sặc sỡ, uy nghiêm và sau cùng là võng các quan: Trấn ải, Tự vệ, Tán ly, Đề lĩnh. Vua, chúa đi kiệu, các quan đi bằng võng, ăn mặc theo đúng tích xưa. Người khiêng kiệu và võng là các thanh niên trai tráng khỏe mạnh được trong họ chọn cử ra đảm nhiệm. Đám rước đi khoan thai trong tiếng nhạc, tiếng trống, tiếng chiêng và rợp trời cờ xí.

Thỉnh thoảng kiệu “Chúa giả” được tung hô, quay một hai vòng làm cho không khi càng thêm sống động. Động tác tung hô này thể hiện tính xông pha, tinh thần xung trận của “chúa” vừa có ý dẹp đường để “vua” đi. Đám rước đến Đồng Chầu, “vua” xuống kiệu lên gò Bái Vọng làm lễ bái vọng đức thánh Huyền Thiên trên đền Sái.

“Chúa” ngồi trên kiệu đến đền Thượng, “chúa” xuống làm lễ “ướm gươm” vào hòn đá ở sau đền (tượng trưng cho Bạch Kê Tinh). Chúa chém ba nhát rồi để phẩm đỏ xuống đá, tục truyền ấy là động tác giết gà trắng. Sau khi làm lễ ướm gươm, “chúa” vào đền đứng vái trước bài vị của Cao Sơn đại vương rồi “biến mất”. Dân làng khiêng kiệu không về đình.

Sau khi làm lễ bái vọng, “vua” cùng các “quan” về đình “ngự” để hành lễ. Cuối ngày 12 tháng Giêng diễn lại tích “chúa” đi hành hội trừ yêu quái: sau khi đi hành hội ba vòng quanh đình có tứ giáp trong làng mang mào gà trắng đến trình “vua” coi như “chúa” đã diệt được ma gà và yêu quái. Sau lễ rước, “vua” trở về nhà bái kiến tổ tiên, gia tộc. Bà con làng xóm vui mừng tới chúc mừng.

Các hoạt động khác

Đền Sái  là ngôi đền nổi tiếng nhất Kinh Kỳ với danh tiếng rút quẻ thẻ cực thiêng và chính xác. Rút quẻ thẻ giống như rút quẻ bói, con hương đệ tử thường rút quẻ đầu năm tại đền để xem quẻ phán gia sự năm mới như thế nào, tốt hay là xấu. Để từ đó gia chủ có thể chuẩn bị trước tâm lý. Thẻ tốt thì lòng an tâm, thẻ xấu thì sẽ sắm lễ cầu thánh thần phù hộ gia quyến bình an, vượt qua vận hạn. Khách hành hương đã từng rút quẻ thẻ tại đây đều nói rằng quẻ rút được phán rất đúng gia sự trong năm nên đã tin lại càng tín hơn.

Tiếng lành đồn xa, cứ thế đền Sái trở thành địa chỉ nổi tiếng nhất Kinh Kỳ khi nhắc đến rút quẻ đầu năm. Do vậy, vào những ngày lễ đầu năm, khung cảnh hàng dài cả trăm mét người xếp hàng chen chúc để được vào đền rút thẻ diễn ra thường xuyên và trở thành một khung cảnh quen thuộc, đặc trưng tại đền Sái. Sau khi rút thẻ xong, con hương sẽ đến gian các ông đồ thầy cạnh đền để giải nghĩa thẻ.

Ngoài nổi tiếng với việc rút quẻ đầu năm đền Sái cũng nổi tiếng là địa chỉ cầu duyên, cầu con hay là nơi con hương dâng lễ vật cầu bình an, gia đình khỏe mạnh, gia sự tốt lành, làm ăn phát đạt vào những dịp đầu năm mới hay những ngày lễ hội tại đền.

Updated: 16/10/2023 — 10:39 chiều

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *