Đền nằm cách thị trấn Hữu Lũng khoảng 10 km.
Lịch sử Đền Công Đồng Bắc Lệ
Ở Đền Công Đồng Bắc Lệ lại lưu truyền câu chuyện Mẫu Thượng ngàn là công chúa La Bình, con gái của Sơn Tinh, cháu ngoại vua Hùng. Nàng thường cùng với cha đi chu du các bản mường, hang động, giúp cho cuộc sống dân lành được sung túc. Vào thời Lê Lợi, bà đã hiển linh, âm phù, hóa thành bó đuốc dẫn quan quân Lê Lợi thoát khỏi sự truy kích của quân giặc. Công cuộc bình Ngô đại thắng, Lê lợi lên làm vua và cho dựng đền Bắc Lệ để ghi nhớ công ơn của bà. Nếu theo tích này thì Đền Công Đồng Bắc Lệ có từ thời vua Lê Lợi.
Trải qua 5 lần tu bổ và tôn tạo nhưng những kiến trúc xưa vẫn còn nguyên vẹn và mang đậm dấu ấn điêu khắc dân gian. Sự giao thoa giữa nền văn hóa Việt Nam và Trung Quốc tạo ra những nét độc đáo riêng cho Bắc Lệ. Thêm vào đó, các hàng cột bằng gỗ, liền khối vẫn còn giữ nét nguyên sơ tạo thêm cho đền sự ấm cúng linh thiêng.
Theo văn bia khắc năm Khải Định thứ 4 (năm 1919) thì trước đó đền chỉ là một am thờ nhỏ, sau bị hỏa hoạn, sau đó nhân dân đã cung tiến xây dựng thành một ngôi nhà 3 gian gồm 3 cung: Đệ Nhất – Đệ Nhị – Đệ Tam (cung cấm) ngôi đền mang bóng dáng nghệ thuật kiến trúc điêu khắc Trung quốc. Sau nhiều lần trùng tu, tu bổ ngôi đền mới được khang trang như ngày hôm nay.
Đền Công Đồng Bắc Lệ đã được tỉnh Lạng Sơn xếp hạng di tích lịch sử tâm linh vào năm 1992.
Không gian kiến trúc Đền Công Đồng Bắc Lệ
Từ dưới chân đồi đi lên, chúng ta đi qua cổng Tam Quan uy nghi, tráng lệ chúng ta sẽ bước vào không gian đền. Bên trái đền là miếu Chầu Bé Bắc Lệ. Trước kia, miếu thờ Chầu Bắc Lệ ở một khoảnh đất bằng phẳng sát bờ suối Bắc Lệ, nay mới chuyển lên đây. Trong miếu có tượng Chầu Bé và tượng Cô Bé Bắc Lệ và tượng Cậu Bé Bắc Lệ. Đây là hai cô cậu hầu cận của Chầu Bé.
Bất kỳ ai muốn lên chiêm bái, cầu đảo Mẫu Thượng Ngàn nơi đâu đều phải thắp hương ở miếu Chầu Bé để xin Chầu có lời tâu đối lên Cửa Mẫu cùng chư thánh tại đền.
Sau khi thắp hương ở miếu Chầu Bé, ta đi thêm khoảng chục bậc thang nữa là lên đến đền chính. Đền chính được xây theo kiểu chữ Đinh gồm tiền tế và hậu cung, đền mới được xây mới lại nhưng vẫn giữ được nét uy nghi và phong cách kiến trúc cũ.
Trên mái đền chính có đắp “Long triều lưỡng nghi”. Lưỡng nghi tượng trưng cho trời và đất, âm và dương, âm dương hài hòa sẽ sinh vạn vật. Nhà bái đường gồm 5 gian. 3 gian ngoài thờ Ngũ Vị Tôn Quan. Phía trên cung thờ Ngũ Vị tôn Quan là bức hoành phi đề: “Hưng Tiên Hiền Từ”. Hai bên thờ đôi câu đối:
Quốc sắc thiên hương nhân gian thánh nữ
Băng cơ ngọc cốt thế thượng thần tiên.
Tạm dịch:
Sắc nước hương trời nhân gian thánh nữ
Mặt hoa da phấn thượng giới thần tiên.
Cung đệ nhị thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế. Tượng Ngọc Hoàng đặt trang trọng ở chính giữa, hai bên có tượng quan Nam Tào – Bắc Đẩu đứng hầu. Phía trước ban thờ Ngọc Hoàng là Ban Tứ Phủ Thánh Hoàng với tượng Thánh Hoàng Bảy, Thánh Hoàng Mười.
Giá trị tâm linh của Đền Công Đồng Bắc Lệ
Đền Công Đồng Bắc Lệ được coi là một trong ba nơi thờ chính của Mẫu Thượng Ngàn. Ba nơi thờ chính của Mẫu Thượng Ngàn là Đền Mẫu Đông Cuông, Đền Suối Mỡ, Đền Công Đồng Bắc Lệ.
Căn cứ theo truyền thuyết và các bản văn chầu thì Đền Công Đồng Bắc Lệ chính là nơi Mẫu Thượng Ngàn hiển linh, âm phù; Đền Suối Mỡ là thắng tích lưu lại dấu vết bà tu tiên luyện đạo còn Đền Đông Cuông là nơi bà giáng sinh và ngự.
Đền Công Đồng Bắc Lệ còn là nơi thờ chính của Chầu Bé. Một vị thánh chầu nổi tiếng trong Tứ Phủ Chầu Bà. Tương truyền Chầu Bé là vị thánh chầu luôn hầu cận bên Mẫu Thượng Ngàn. Chính vì thế, khi đến Đền Công Đồng Bắc Lệ, chúng ta thường phải khấn tấu Chầu trước khi vào lễ Mẫu.
Thần tích Mẫu Thượng Ngàn tại Đền Công Đồng Bắc Lệ
La Bình Công chúa là con gái của Sơn Tinh (tức Tản Viên Sơn Thánh) và Mỵ Nương. Tức La Bình là cháu ngoại của Vua Hùng. Lúc còn nhỏ, La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khắp mọi nơi, từ miền núi non hang động đến miền trung du đồi bãi trập trùng để dậy dân săn bắn, chăn nuôi, trồng cây, cấy lúa, làm nhà, làm thuốc chữa bệnh… Đó luôn luôn được theo cha như thế nên La Bình cũng học hỏi được rất nhiều điều. Vốn thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La Bình cũng biết, cũng giỏi. Những khi Sơn Tinh bận việc hay không thể đi khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình thường được cha cho đi thay. Những lần như thế, La Bình luôn tỏ ra là một người đầy bản lĩnh, biết tự chủ trong giao tiếp, lại cũng biết thành thạo trong mọi công việc. Các sơn thần, tù trưởng đặc biệt quý trọng nàng, coi nàng là người đại diện xứng đáng của Sơn Thánh.
Khi Tản Viên và Mỵ Nương, theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế trở về trời thành hai vị thánh bất tử thì La Bình cũng được phong là Công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả 81 cửa rừng và các miền núi non hang động, các miền trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam.
Thần tích Chầu Bé Bắc Lệ
Nhiều tài liệu cho rằng: Chầu Bé Bắc Lệ vốn gốc người Nùng, dưới thời Lê Thái Tổ, chầu giáng sinh xuống miền Bắc Lệ, Lạng Sơn. Chầu Bé nơi đây chính là Mẫu Thượng Ngàn hóa thân, giúp vua Lê Thái Tổ trong cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh. Như vậy, Chầu Bé có thể là một nhân vật có thật tại vùng này, có công giúp vua Lê Lợi chống giặc.
Chầu Bé Bắc Lệ thường dạo chơi khắp chốn thắng cảnh hữu tình, dạy dân chúng trồng trọt chăn nuôi, lên rừng làm ruộng bậc thang, xuống sông suối đánh bắt cá tôm. Tương truyền, Chầu Bé có phép thần thông do Đức Thái Tổ ban quyền có thể lay núi chuyển ngàn, đôi lúc rong chơi chầu lấy tàu lá giả làm hàng bán để trêu đùa người trần gian. Tuy đành hanh sắc sảo nhưng chầu cũng hết sức nhân hậu, có việc dữ lành chầu đều mách bảo cho người trần.
Chầu Bé cùng với Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục, là một trong ba vị Chầu Bà trên Thượng Ngàn hay về ngự đồng nhất.
Đền thờ chính của Chầu Bé là ngôi miếu nhỏ bên cạnh Đền Công Đồng Bắc Lệ.
Lễ hội Đền Công Đồng Bắc Lệ
Lễ hội chính của Đền Bắc Lệ được tổ chức vào ngày 20 tháng 9 Âm lịch. Nhưng hiện nay với sự độc đáo của phong cảnh sơn thủy hữu tình cũng như sự linh thiêng của ngôi đền nên Đền Công Đồng Bắc Lệ lúc nào cũng đông khách thập phương đến vãn cảnh, hành lễ như lễ hội.
Lễ hội gồm có các phần lễ chính như lễ tắm ngai, lễ chính tiệc, lễ rước. Lễ tắm ngai diễn ra trước lễ rước. Trong đó, người dân lấy nước suối đền Bắc Lệ về lau tượng Mẫu đệ nhất Thượng ngàn và ngai đức vua cha Ngọc Hoàng. Lễ chính tiệc bao giờ cũng có cỗ tam sinh làm vật hiến tế. Ngoài ra, còn có nhiều đồ lễ mã khác như voi, ngựa, thuyền, mũ, hình nhân. Cỗ tam sinh dâng ban Công Đồng, ban Ngũ vị Tôn Ông, cỗ chay (có khi cả mặn) ban cho Mẫu. Sau đó, lễ rước Mẫu đi xem hội trong tiếng chiêng, trống rộn ràng. Đoàn rước đến đền Đèo Kẻng (một di tích liên quan đến đền Bắc Lệ) làm đại tế. Đại tế ở Đền Đèo Kẻng xong mọi người quay về làm đại tế đền Công Đồng Bắc Lệ.