Ngày nay phong tục cưới hỏi ở miền Bắc đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, 4 nghi lễ chính là “Dạm ngõ, Ăn hỏi, Đón dâu, Lại mặt” vẫn còn được giữ đến tận bây giờ.
Lễ dạm ngõ (chạm ngõ)
Lễ dạm ngõ hay lễ chạm ngõ là nghi lễ khởi đầu cho phong tục cưới hỏi của người Kinh. Đây là nghi lễ đặc biệt quan trọng và không thể bỏ qua trong đám cưới truyền thống của người miền Bắc. Vì thế, trước khi làm lễ dạm ngõ thì nhà trai sẽ chọn ngày lành tháng tốt. Mục đích của lễ dạm ngõ là “người lớn” bên gia đình nhà trai sang nhà gái thưa chuyện và xin phép gia đình nhà gái, để chú rể có thể chính thức qua lại với cô dâu.
Những thủ tục và lễ vật trong lễ dạm ngõ khá đơn giản nhưng cần sự ấm cúng và thân thiết của gia đình hai bên. Tuy nhiên, lễ vật nhất thiết phải có trong lễ dạm ngõ là: chục trầu cau, chè, thuốc và bánh kẹo và tất cả phải là số lượng chẵn.
Thành phần tham dự trong ngày lễ dạm ngõ cũng chỉ trong nội bộ gia đình 2 họ của cô dâu, chú rể như: Ông bà, bố mẹ và anh chị em ruột của cô dâu chú rể.
Việc đón tiếp nhà trai cũng hết sức đơn giản và thân thiện. Nhà gái chuẩn bị sẵn trà, thuốc, bánh kẹo, trái cây… mời khách bên gia đình chú rể. Sau khi nhà trai trao lễ, nhà gái nhận và đặt lên bàn thờ gia tiên để thắp hương.
Sau đó, cả 2 bên gia đình ngồi xuống nói chuyện, để bàn các thủ tục khác cho lễ ăn hỏi và lễ cưới và thống nhất ngày, giờ để thực hiện các thủ tục đó. Lễ chạm ngõ là bước đi đầu tiên để tiến tới chuyện hôn nhân, người con gái lúc này xem như có được bến đỗ của đời mình.
Lễ ăn hỏi
Sau lễ dạm ngõ là lễ ăn hỏi hay còn gọi là lễ nạp tài. Nghi lễ này như một lời thông báo chính thức của 2 bên gia đình về việc hứa gả con cái.
Nếu như trước đây, phong tục cưới hỏi của người miền Bắc sẽ tách riêng lễ ăn hỏi, xin cưới và nạp tài thì ngày nay để tiết kiệm thời gian cả 2 bên, lễ ăn hỏi sẽ bao gồm cả 3 nghi lễ trên.
Trong lễ ăn hỏi, nhà trai sẽ mang đến nhà gái 30 chục trầu và tráp ăn hỏi. Sau khi bố chú rể và bố cô dâu giới thiệu thành phần tham dự thì mẹ chú rể sẽ lần lượt đưa 30 chục trầu này. Chục trầu thứ nhất là cho nghi thức ăn hỏi, chục trầu thứ hai cho nghi thức xin cưới, chục trầu thứ 3 cho lễ nạp tài.
Nhận xong 30 chục trầu trên từ nhà trai thì nhà gái sẽ nhận tiếp các tráp ăn hỏi. Tùy từng gia đình mà tráp ăn hỏi ở đây có thể là: 5, 7, 9, 11 nhưng bắt buộc phải là số lẻ và lễ vật trong các tráp phải là bội số của 2. Đồ lễ ăn hỏi trong mỗi tráp bắt buộc phải có mâm xôi, lợn quay, bánh cốm, bánh xu xê, chè, rượu, trầu cau và thuốc lá.
Đồ lễ ăn hỏi được nhà gái lấy một ít lên thắp hương trên bàn thờ gia tiên. Sau đó, nhà gái thường sẽ chia cho nhà trai 1 phần và giữ lại 2 phần. Phần lễ giữ lại này sẽ được nhà gái dùng để mời cưới.
Cuối cùng, cô dâu và chú rể sẽ ra mắt hai họ, rót nước, mời trầu các vị quan khách 2 bên gia đình.
Có một số địa phương, trong lễ ăn hỏi nhà trai phải chuẩn bị một số tiền gọi là tiền thách cưới hay tiền nạp tài. Số tiền này được coi là thành ý, là lời cảm ơn chân thành của nhà trai đến nhà gái vì đã có công sinh thành, nuôi dưỡng con dâu mà họ sắp rước về. Tiền lễ này còn mang ý nghĩa khác, nó cũng được xem như là nhà trai góp một phần công sức, tiền của vào việc chăm lo cho con dâu trước ngày thành hôn. Nhà gái có thể dung số tiền này để sắm sửa quần áo, tư trang cho cô dâu trước khi về nhà chồng.
Lễ đón dâu
Sau lễ ăn hỏi, lễ cưới sẽ được tổ chức vào ngày lành tháng tốt mà gia đình cô dâu chú rể đã lựa chọn. Lễ cưới chính là nghi lễ quan trọng nhất trong phong tục cưới hỏi ở miền Bắc và nhà trai sẽ chính thức rước cô dâu về nhà.
Thủ tục đám cưới nhà trai sẽ có một mâm lễ và phong bì tiền mặt. Số tiền này có thể do nhà gái đưa ra hoặc do nhà trai tự quyết định số tiền và bỏ vào phong bì đỏ trong khay nhỏ do mẹ chú rể cầm để trao tặng cho nàng dâu mới.
Phần tiền dẫn cưới này không có ý nghĩa mua bán mà nó thể hiện sự kính trọng của gia đình nhà trai cũng như muốn góp một phần chi phí cho lễ cưới bên gia đình nhà gái.
Sau khi cả 2 bên gia đình giới thiệu thành phần tham dự trong lễ cưới thì nhà trai sẽ trao đầu xin dâu cho nhà gái đồng thời xin phép chú rể lên phòng đón cô dâu.
Cô dâu, chú rể làm lễ gia tiên tại nhà gái, thắp hương lên bàn thờ tổ tiên, mời trà người lớn và ra mắt họ hàng. Sau cùng là xin phép được đưa cô dâu về nhà chồng.
Phong tục cưới lấy ngày
Phụ thuộc vào tuổi của cô dâu mà theo quan niệm sẽ có phong tục cưới lấy ngày. Phong tục này ở một số nơi còn được biết đến với tên gọi là đón dâu 2 lần.
Vào ngày ăn hỏi, ngoài các thủ tục truyền thống sẽ có thêm thủ tục xin dâu. Cô dâu theo nhà trai về nhà và ở lại. Và đến sáng hôm sau thì tự ra về đặc biệt là không được để bất kỳ ai biết. Coi như đây là một lần xuất giá.
Lễ lại mặt
Sau khi kết thúc lễ cưới, người miền Bắc sẽ có thêm nghi lễ lại mặt. Đây cũng là nghi lễ quan trọng và bắt buộc trong phong tục cưới hỏi của người Kinh.
Lễ lại mặt được tổ chức ấm cúng bao gồm các thành viên 2 bên gia đình. Lễ lại mặt thể hiện sự hiếu thảo của cô dâu, chú rể với gia đình nhà gái dù đi lấy chồng nhưng vẫn không quên hiếu thuận với bố mẹ ruột. Đồng thời đây còn là dịp để gia đình chú rể thể hiện sự kính trọng, chu đáo của mình với gia đình cô dâu.
Lễ lại mặt có thể được tổ chức sau lễ cưới 1, 2 ngày hoặc sau khi cô dâu – chú rể hưởng tuần trăng mật về. Tuy nhiên, khoảng thời gian này không được để quá lâu.
Hy vọng với những gì mà Văn Hóa Tâm Linh chia sẻ trên đây đã giúp các bạn hiểu hơn những nghi thức, tục lệ trong tổ chức đám cưới ở miền Bắc. Từ đó giúp những đôi bạn trẻ và gia đình có thể chuẩn bị được kỹ lưỡng, đầy đủ nhất cho ngày trọng đại của cuộc đời.