Ngôi đền được biết đến như một điểm cúng lễ cầu an, cầu tài lộc nổi tiếng không chỉ đối với người dân Hà Nội mà còn đối với đệ tử tứ phương.
Đền Ghềnh ở đâu Hà Nội?
Đền Ghềnh có tên chữ là “Thiên Quang linh từ”, ở ngay mép sông Hồng, gần cầu Chương Dương, trước thuộc thôn Ái Mộ, xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, nay thuộc tổ 2, phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội. Ái Mộ – Bồ Đề là một địa danh có nhiều di tích lịch sử, văn hóa. Nơi đây từng là đại bản doanh của Lê Lợi và Nguyễn Trãi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh.
Đền Ghềnh là cách gọi thân quen của nhân dân địa phương, vì nơi đây xưa kia nước sông chảy xiết, cuộn ghềnh. Nước dữ đã làm thuyền qua lại trên sông hay lật và bị cuốn trôi. Nhưng rất lạ, miếu nhỏ thờ Thủy thần lại được gọi là Thiên Tiên Cổ điện, tức miếu thờ Tiên (trên trời). Phải chăng nơi đây đất lành nên Thiên – Thủy giao hòa? Do vị trí gần mép sông nên miếu bị sạt lở và được xây dựng lại nhưng miếu trở thành đền như ngày hôm nay là do việc xây dựng lại gắn với truyền thuyết ba bộ hài cốt của mẹ con Ngọc Hân công chúa – Bắc cung Hoàng hậu của vua Quang Trung thời Tây Sơn.
Công chúa Lê Ngọc Hân là ai?
Công chúa Lê Ngọc Hân con vua Lê Hiển Tông và bà Chúa Nành (Hoàng hậu Nguyễn Thị Huyền) ở làng Nành, Tiên Sơn, Bắc Ninh. Bà là bắc cung Hoàng Hậu của vua Quang Trung Nguyễn Huệ.
Công Chúa Ngọc Hân từ nhỏ đã nổi tiếng xinh đẹp và đủ tài cầm kỳ thi họa. Công chúa được coi là một nữ thi sĩ tài sắc của nền văn chương cổ Việt Nam. Năm 16 tuổi (năm 1786), nàng được vua cha gả cho Bắc Bình vương Tây Sơn Nguyễn Huệ. Ba năm sau, Công chúa được Quang Trung tấn phong Bắc Cung Hoàng Hậu.
Công chúa Lê Ngọc Hân, nổi tiếng về tài, đức và sự trinh liệt. Cho đến nay, trong dân gian vẫn lưu truyền sự tích đền Ghềnh gắn với số phận bi thương của công chúa Ngọc Hân, người được cả kinh thành Thăng Long gọi là “Chúa tiên” bởi dung nhan xinh đẹp, cầm kỳ thi họa đủ tài xuất chúng.
Cuộc tình giữa Ngọc Hân và Hoàng đế Quang Trung chỉ kéo dài 6 năm, sự ra đi đột ngột của vị hoàng đế tài ba đã khiến mẫu nghi thành Thăng Long đổ máu khóc chồng với tác phẩm bất hủ “Ai tư vãn” bất hủ. Bảy năm sau, ở tuổi 29, nàng lặng lẽ đi theo Quang Trung vào cõi vĩnh hằng.
Lịch sử đền Ghềnh
Nhà Nguyễn lên ngôi đã tìm cách tận diệt những người có liên quan đến triều đại Tây Sơn. Bà Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, xót phận con gái Ngọc Hân sau khi mất, vẫn phải gửi thân ở Phú Xuân – Huế nên đã tìm cách bí mật đưa được hài cốt Bắc cung Hoàng hậu nhà Tây Sơn về an táng tại quê nhà (làng Nành, Gia Lâm).
Bất chấp sắc lệnh cấm thờ phụng của nhà Nguyễn, hơn 200 năm nay nhân dân đã bí mật thờ Công Chúa tại đền này dưới danh nghĩa Mẫu Thoải.
Không ngờ đến đời vua Minh Mạng có người đã đem việc “ngụy hậu” Tây Sơn vẫn đang được “mồ yên mả đẹp” ở quê mẹ, thoát việc “trả thù 9 đời” do vua Gia Long khởi xướng và thực thi. Triều đình Huế ra lệnh lập tức đào mộ Ngọc Hân lên, san đất thành bình địa cho cỏ gai mọc đầy, còn xương cốt thì đem vứt xuống sông. Hài cốt Ngọc Hân bị đổ xuống sông Hồng thuộc địa phận làng Ái Mộ.
Thương xót Bắc cung Hoàng hậu tài hoa bạc mệnh, nhân dân Ái Mộ lập miếu thờ bà chính nơi bờ sông vớt được hài cốt. Dòng sông bên lở, bên bồi; ít lâu sau, ngôi miếu nhỏ cũng bị lũ cuốn trôi.
Cho đến năm 1858, cụ Ðặng Thị Bản đã công đức để tôn tạo đền chùa ở Ái Mộ, Lâm Du, Phú Viên. Năm 1872, đền lại bị giặc Pháp đốt sạch trong cơn binh lửa đánh Thành Hà Nội.
Trong cung còn lưu đôi câu đối ca ngợi Lê Ngọc Hân:
Sơn nhạc chung linh, Lê thị chí kim lưu tự điển
Phong vân trường lộ, Nhĩ Hà dĩ bắc ngật sùng từ
Dịch nghĩa:
Núi Nhạc linh thiêng, gương bà họ Lê truyền ghi sử sách.
Sóng gió lặng yên, đền dựng to cao đẹp bến sông Hồng.
Đền Ghềnh thực chất là nơi thờ Công chúa Ngọc Hân – Bắc cung Hoàng hậu của Vua Quang Trung, mẫu thân là Hoàng hậu Nguyễn Thị Huyền và hai con của công chúa.
Dốc lòng với việc tín nghĩa, cụ lại đi quyên góp xây lại đền. Trải bao phen binh lửa, can qua, đền Ghềnh vẫn được con cháu cụ Ðặng Thị Bản trông nom và dân làng gìn giữ đến ngày nay. Bà đã trở thành Tổ của đền. Và những người kế tục bà đều là con cháu dòng họ Đặng Đình, nhưng phải là người có căn duyên.
Kiến trúc đền Ghềnh
Đền hiện có các hạng mục chính như: điện mẫu, điện sơn trang, nhà tổ, nhà khách và khu vực phụ trợ. Trong Đền còn lưu giữ được nhiều di vật quý: quả chuông được đúc vào thời Tự Đức, hai cỗ kiệu được trang trí bằng nghệ thuật chạm trổ, các bức đại tự, cuốn thư, hoành phi và câu đối.
Cổng vào đền được xây theo lối cổng tam quan với cửa đỏ nổi bật.
Tiến vào trong, tại sân đền có ban thờ ông Hồ (Quan Thanh Tra) quay thẳng vào chính điện. Tại chính điện, phía trong cùng là cung cấm được sơn son thiếc vàng lộng lẫy thờ công chúa Ngọc Hân hay chính là Mẫu Thoải. Hai bên phía ngoài cung cấp có đặt ban thờ Tứ Vị Thánh Chầu cùng Công Đồng các quan, Ngũ vị Tôn Ông, các vị Tứ Phủ Thánh Cậu.
Mẫu Liễu Hạnh con gái Ngọc Hoàng và Mẫu Thượng ngàn, con gái thần núi Tản Viên cũng được rước về phối thờ.
Cùng với các di vật quý, di tích Đền Ghềnh ngày nay đã trở thành một công trình kiến trúc cổ kính, được đông đảo du khách cả nước biết đến.
Hệ thống điện Thần trong đền Ghềnh có nét khác biệt so với điện Thần Tứ phủ thông thường đó là:
– Trong cung cấp chỉ có tượng công chúa Ngọc Hân được coi là Mẫu Thoải mà không có Mẫu Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Địa.
– Hai bên phía ngoài Hậu Cung là Tứ vị Thánh Chầu, cách bài trí này ít gặp ở các điện Thần Tứ phủ khác như Phủ Tây Hồ, phủ Dầy, đền Mẫu Tuyên Quang, Lạng Sơn…
– Thông thường tượng các quan Hoàng Khâm Trực điện Thần Mẫu (quan Hoàng Bơ, Hoàng Bảy, Hoàng Mười) được đặt tại Công đồng các quan, ngay phía trước Ngũ vị Tôn Ông. Nhưng ở đây, các vị này lại được đặt ơ hai bên quay vào chính điện. Đây lại là một điểm khác nữa.
– Sự khác biệt thứ tư là Tứ phủ Thánh Cậu được đặt ở hai bên trước cửa lầu Sơn Trang. Rất ít khi thấy nơi nào thờ Tứ phủ Thánh Cậu trong chính điện mà chỉ có lầu Cô, lầu Cậu ở phía trước đền.
– Hai Lầu Cô ở đền Ghềnh đặt trước phủ Chúa Sơn Trang là sự khác biệt thứ năm.
– Điểm khác biệt thứ sáu là trước cửa đền, ngoài sân có ban thờ ông Hồ (trong đạo Mẫu gọi là Quan thanh tra) quay thẳng vào chính điện. Cách bài trí này không có ở các đền Mẫu khác. Chưa thể hiện rõ căn nguyên sự khác biệt, nhưng sự khác biệt này làm nên nét độc đáo của đền Ghềnh.
Lễ hội Đền Ghềnh
Hàng năm đều diễn ra Lễ hội Đền Ghềnh nổi tiếng khắp cả nước với nhiều hoạt động mang đặc trưng của vùng đồng bằng sông Hồng. Lễ hội thể hiện ước nguyện của người dân về mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc; đồng thời tưởng nhớ đến nỗi đau của Hoàng hậu Lê Ngọc Hân. Lễ hội Đền Ghềnh lần đầu tiên được tổ chức vào đời Thành Thái, khoảng năm 1889; bắt đầu từ ngày 1 tháng 8 và kết thúc vào ngày 12 tháng 8 âm lịch hàng năm.
Các phần chính trong Lễ hội Đền Ghềnh là: sáng mồng 3-8, làm lễ rước nước sông Hồng về đền; sáng mồng 6-8, vào chính hội, hội làng tươi vui trong đám rước kiệu bát cống của trai tân và kiệu võng của các cô gái đồng trinh; mồng 7-8, đặc sắc nhất là 5 người đóng 5 ông Quan Ðệ Nhất, Quan Ðệ Nhị, Quan Ðệ Tam, Quan Ðệ Tứ, Quan Ðệ Ngũ ngồi trước cửa Ðền hay còn gọi là Lễ Kiều Năm quan. Buổi tối có hát văn ca ngợi Thánh Mẫu, trong đó có lồng lời ca, ca ngợi vua Quang Trung, anh hùng áo vải và nỗi lòng bi thương của công chúa Ngọc Hân dựa vào bài thơ “Ai tư vãn” nổi tiếng.
Sau lễ tạ là các cuộc thi bơi trải vượt sông Hồng. Các lễ vật được lựa chọn để dâng trong lễ hội là bánh đa và khế ngọt. Năm 2013, thiết thực chào mừng kỷ niệm 10 năm quận Long Biên, lễ hội Đền Ghềnh đã được tổ chức với quy mô lớn, phục dựng lại hầu hết các nghi lễ của Lễ hội Đền Ghềnh truyền thống xưa, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách thập phương.