Từ đồng bằng cho đến miền núi, hải đảo 54 dân tộc Việt Nam đều đoàn kết một lòng cùng nhau trải qua các giai đoạn lịch sử hào hùng gây dựng đất nước.
1. Dân tộc Kinh
Dân số dân tộc Kinh: 82.085.984 người – chiếm hơn 85% dân số Việt Nam
Địa phương sinh sống: Dân tộc Kinh là nhóm chiếm đại đa số ở nước Việt Nam. Người Kinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Ngôn ngữ chính sử dụng giao tiếp là Tiếng Việt và họ có phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà.
Nông nghiệp trồng lúa nước được xem là hoạt động sản xuất đặc trưng của dân tộc này. Một số tín ngưỡng đặc trưng của người Kinh như thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu,.. Trong đó người dân có thể lựa chọn theo các tôn giáo khác nhau như đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài, đạo Tin Lành,..
Trong gia đình của người Kinh thì người chồng sẽ là trụ cột, người có tiếng nói và sẽ là chủ của gia đình. Con cái sau khi sinh ra sẽ theo họ của ba. Người con trai đầu sẽ có trách nhiệm thờ phụng ba mẹ, ông bà đã khuất và quán xuyến các việc trong gia đình.
Với nền văn hóa nghệ thuật rộng lớn từ văn học, các bộ môn nghệ thuật dân gian, lễ hội,.. đều mang đậm nét đặc trưng riêng. Và ở mỗi khu vực vùng miền người Kinh khác nhau trên nước Việt Nam ta đều sẽ mang những đặc điểm văn hóa có sự khác biệt nhất định. Người dân tộc Kinh đặc biệt có rất nhiều lễ hội được tổ chức quanh năm với rất nhiều nét độc đáo, tạo được dấu ấn riêng như là lễ hội chùa Hương, lễ hội Đền Hùng, lễ hội chùa Bái Đính,…
. “Cơm tẻ, nước chè” được biết như nét ẩm thực ăn uống cơ bản nhất của người dân tộc Kinh. Ở mỗi mâm cơm gia đình thì sẽ thường có các món canh cá, canh rau, sử dụng nhiều loại mắm (mắm cá, mắm tôm,..)
Cũng tùy thuộc theo từng vùng miền sinh sống mà người dân sẽ có những trang phục đặc trưng riêng và cũng có chịu ảnh hưởng của các dân tộc khác. Đặc biệt nhất là áo dài, áo tứ thân, áo bà ba,..
2. Dân tộc Tày
Dân số dân tộc Tày: 1.845.492 người
Địa phương sinh sống: Dân tộc Tày thường sinh sống ở vùng trung du miền núi phía Bắc (nhiều nhất ở Bản Hồ và Thanh Phú)
Ngôn ngữ: Tiếng Tày – Thái (hệ Thái – Ka Ðai). Chữ viết của người dân tộc Tày dựa trên bảng chữ cái La Tinh từ 1960, khá giống chữ viết của người Việt xưa.
Người dân tộc Tày sống bằng các ngành nghề như trồng lúa nước, trồng các loại cây công nghiệp như chè, hồi, thuốc lá. Tín ngưỡng của người dân tộc Tày chính là thờ Đa Thần, thờ cúng tổ tiên. Vì theo quan niệm của người dân tộc Tày thì “Vạn vật hữu linh” nên bất cứu mọi vật đều sẽ có linh hồn riêng. Một số người dân tộc Tày có tục rước chó đá về nhà để nhằm canh giữ và bảo vệ gia đình. Lá bưởi trong quan niệm của người Tày cũng được xem là loại lá có tác dụng xua đuổi vận xui, trừ tà.
Nền văn hóa của người Tày cũng rất phong phú, họ có rất nhiều truyện, thơ ca dân gian được lưu trữ quan nhiều thế hệ. Nổi bật phải kể đến là những làn điệu ca giao gieo duyên của các chàng trai cô gái người Tày – hát Leu thường thấy trong các dịp lễ hội, sinh hoạt văn hóa,.. Mỗi năm đều sẽ có rất nhiều lễ hội lớn mừng mùa màng như là hội Thanh Minh, hội tranh đầu pháo, hội Lồng Tồng,..
Điểm khác biệt của người Tày đó chính là tục lệ kết hôn trong cùng dòng họ. Hai bên sẽ có quyền tìm hiểu nhau nhưng có được phép kết hôn hay không sẽ còn tùy thuộc vào quyết định của gia đình.
Những món ăn đặc trưng của người Tày có thể kể đến như thịt trâu xào măng chua, canh cá lá chua, thịt lợn chua,..
Trang phục dân tộc Tày có vẻ khá đơn giản nhưng đều được thêu dệt với đường nét chi tiết tỉ mỉ mang đến nét đẹp rất giản dị cho người mực. Thường thì người dân tộc Tày sẽ đeo thêm nhiều đồ trang sức bạc như lắc tay, khuyên tai, kiềng, xà tích để làm điểm nhấn.
3. Dân tộc Thái
Dân số dân tộc Thái: 1.820.950 người.
Địa phương sinh sống: Người dân tộc Thái thường sinh sống ở các tỉnh Sơn La, Nghệ An, Lai Châu, Hòa Bình.
Ngôn ngữ: Tiếng Tày – Thái (hệ Thái – Ka Ðai).
Người dân tộc Thái thường sinh sống chủ yếu ở khu vực Tây Bắc Việt Nam với bao gồm người Thái trắng và dân tộc người Thái đen. Đây là một trong số rất ít dân tộc ở nước ta có hệ thống chữ viết riêng với một mối liên hệ với những mẫu từ ngữ hệ Sanscit có nguồn gốc từ miền Nam Trung Quốc.
Những câu chuyện cổ tích, thần thoại, ca dao, thơ,.. đều là những kho tàng văn học quý giá mà người dân tộc Thái đã gìn giữ suốt bao nhiêu thế hệ. Nổi tiếng nhất phải kể đến các tác phẩm Khun Lú Nàng Úa, Xống chụ xon xao. Trong biểu diễn văn hóa văn nghệ thì chúng ta cũng không thể bỏ qua được những điệu múa đặc trưng nổi tiếng của người dân tộc nơi đây với các điệu múa sạp, múa xòe vừa uyển chuyển lại rất lôi cuốn, hấp dẫn. Một số lễ hội nổi tiếng của người dân tộc Thái ở nước ta đó là lễ hội gội đầu, lễ hội hoa ban, lễ hội Kin Pang Then, lễ hội cầu mưa, lễ hội cầu mùa màng,..
Trước kia trong hôn nhân thì chú rể sẽ cần ở rể nhà gái vài năm đầu đến khi có con thì mới được trở về nhà phía chồng để sinh sống tuy nhiên ngày nay tục lệ này đã được bỏ đi. Cách để giúp người ngoài dễ dàng nhận biết xem cô gái người Thái có chồng hay chưa chính là dựa vào búi tóc trên đầu (chỉ có người phụ nữ đã lập gia đình mới để)
Ẩm thực của người Thái nước ta cũng có rất nhiều nét đặc trưng nổi bật với hương vị và cách chế biến rất độc đáo. Như là các món cá nước pỉnh pộp, măng chua, chẩm chéo, món cá hun khói pa giảng,..
4. Dân tộc Mường
Dân số dân tộc Mường: 1.452.059 người
Địa phương sinh sống: Người Mường tập trung đông ở các tỉnh Miền Bắc. Đặc biệt là tỉnh Hòa Bình và một số huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá.
Ngôn ngữ: Việt – Mường (hệ Nam Á)
Cây lúa nước là loại lương thực chính của người dân tộc Mường. Được xem là dân tộc có nét đặc trưng khá tương đồng với người Kinh nhưng người Mường cũng có rất nhiều phong tục riêng cho mình. Điển hình như là thờ Đa Thần, bên cạnh thờ phụng tổ tiên của mỗi gia đình thì còn có thờ tổ tiên của làng xã, thờ thành hoàng, thờ vua, các vị thần rừng thần núi,..
Trong văn hóa nghệ thuật dân gian của người dân tộc Mường cũng có nhiều nét đẹp độc đáo như đa dạng thể loại thơ ca, truyện cổ, ví đúm, tục ngữ,.. Cồng, sáo trống, khèn lù, nhị là những nhạc cụ đặc sắc của người dân tộc này.
Một số lễ hội nổi tiếng của người Mường như là lễ hội chùa Hang, lễ hội chùa Kè, lễ hội Khuống mùa, lễ hội đền Bờ,.. Trong các dịp này mọi người sẽ tụ họp để tưởng nhớ công ơn của ông bà tổ tiên, gửi lời biết ơn và cầu mong may mắn, mùa màng bội thu. Sau đó người dân sẽ cùng nhau tham gia nhiều trò chơi thú vị như là ném còn, đánh cù, bắn nỏ,..
Nói đến ẩm thực thì không thể bỏ qua các món măng rừng, rau rừng, vịt cỏ, gạo nếp hay rượu cần của người dân tộc Mường. Nổi bật là những món thịt thui luộc, cơm lam, cá nướng, thịt trâu nấu lá lồm,..
Trong trang phục đặc trưng của người dân tộc Mường rất đa dạng từ áo xẻ ngực có thân ngắn, váy dài có cạp váy được dệt hoa văn độc đáo, có các loại trang sức là chuỗi hạt, dây bạc, vuốt của các loại mãnh thú,..
5. Dân tộc Khmer
Dân số dân tộc Khmer: 1.319.652 người
Dân tộc Khmer nằm trong nhóm 21 dân tộc nói ngôn ngữ Môn Khơ Me. Khu vực sinh sống sẽ nằm rải rác từ Tây Bắc, miền Trung Tây Nguyên cho đến một số nơi ở Nam Bộ.
Văn hóa của người Khmer cũng rất đa dạng với nghề canh tác chính là làm nương rẫy, họ sở hữu nhiều lễ hội và nét văn hóa cực kỳ độc đáo. Một số lễ hội nổi tiếng của người Khmer có thể kể đến như là lễ cúng Trăng, lễ cúng ông bà, ngày Tết Chôl Thnăm Thmây, ngày Vônabat,..
Là dân tộc có hệ thống ngôn ngữ và chữ viết riêng cho mình kèm theo đó là một kho tằng những câu chuyện cổ, thần thoại, truyền thuyết và nghệ thuật sân khấu truyền thống rất nổi tiếng và lâu đời. Âm nhạc của dân tộc Khmer cũng chịu một phần ảnh hưởng của quốc gia Ấn Độ
Người Khmer hầu hết đều theo đạo Phật với hệ thống linh thần, linh thú mang đậm dấu ấn Bà La Môn. Trong đó tại khu vực Nam Bộ nơi mà người dân tộc Khmer sinh sống đông đảo nhất thì có tầm khoảng 600 ngôi chùa lớn nhỏ sở hữu lối kiến trúc lạ mắt đã được xây dựng cách đây vài thế kỷ trước. Chúng trở thành những di sản đặc sắc của ngời dân tộc Khmer, phải kể đến như: chùa Mẹt, chùa Âng, chùa Dơi, chùa Hang,..
Nói về trang phục thì chúng ta không thể bỏ qua được các bộ váy xàm pốt cho nữ giới hay xà rông chon am của người dân tộc Khmer.
6. Dân tộc Hmong (H’mông)
Dân số dân tộc Hmong: 1.393.547 người.
Địa phương sinh sống: Người H’Mông tập trung đông đảo ở các tỉnh vùng cao như Tuyên Quang, Sơn La, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An. đặc biệt là Lai Châu.
Ngôn ngữ: Mông (Mèo – Dao)
Nơi đầu tiên xuất hiện dân tộc người Hmong sinh sống tại nước ta chính là ở khu vực Mèo Vạc, Đồng Vân, Hà Giang. Đây được nhiều người Hmong lựa chọn và xem giống như là nguồn cội, quê hương của mình. Ngày nay thì người Hmong đã mở rộng khu vực sinh sống ra nhiều tỉnh thành ở phía Bắc nước ta như là Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Thanh Hóa, Nghệ An,..
Trong tín ngưỡng thờ cúng của người Hmong thì ngoài thờ cúng tổ tiên mình thì họ còn thờ Đa Thần. Giống như tín ngưỡng của một số dân tộc thiểu số khác vẫn thực hiện. Họ cũng tin tưởng vào những gì liên quan đến chu kỳ sinh sống của đời người
Nét phong tục tập quán đặc sắc của người Hmong có thể kể đến chính là tục bắt vợ với khởi nguồn chính là từ việc tình cảm của cặp đôi trai gái bị gia đình ngăn cấm đã phải hẹn nhau đến một địa điểm hẹn ước để tiến hành bắt vợ. Tục bắt vợ ngày nay vẫn tuân thủ nhiều nghi thức, nguyên tắc và tập tục thời xưa và lưu ý đó là nếu với những tình yêu đơn phương từ chàng trai mà không có sự chấp thuận của phía cô gái thì sẽ ngay lập tức bị hủy bỏ và đền danh dự cho nhà gái, tổ chức ăn uống trong 7 ngày.
Một số lễ hội đặt trưng của người Hmong phải kể đến như là lễ nào sồng, lễ gầu tào, lễ ngô mới, lễ cúng nương, lễ cúng thần rừng,..
Nếu có dịp đến đây thì cũng đừng bỏ qua cơ hội thưởng thức những món ngon của người Hmong như là thắng cố, mèn mén, cơm lam, rượu táo mèo, rượu ngô Bắc Hà,..
7. Dân tộc Nùng
Dân số dân tộc Nùng: 1.083.298 người.
Người Nùng sinh sống chính bằng cách trồng trọt các loại lương thực chính như là ngô, lúa được trồng ở các sườn đồi. Bên cạnh đó họ cũng còn rất nhiều làn nghề thủ công mỹ nghệ liên quan đến đồ gốm, đan lát, rèn, dệt, nghề mộc,..
Đối với người dân tộc Nùng thì dù có là anh chị em họ hàng con em hay con chị thì sẽ đều dựa vào độ tuổi cao thấp để xác định vị trí xưng hô anh chị. Mọi người không hay gọi thẳng tên của người ông, người ba trong nhà mà sẽ gọi theo tên đứa con đầu, cháu đầu của họ.
Trong kho tàng văn hóa của người Nùng cũng đa dạng và phong phú không kém cạnh các dân tộc anh em khác, trong đó không thể không nhắc đến các làn điệu dân ca đậm đà bản sắc núi rừng. Một lễ hội nổi tiếng của người Nùng thu hút nhiều người quan tâm mỗi năm đó là hội xuống đồng (Lùng tùng). Tại đây người dân sẽ mặc các trang phục truyền thống với áo 5 thân, quần ống rộng dài đến mắt cá chân được nhuộm màu chàm. Với người phụ nữ Nùng sẽ có 1 chiếc tạp dề ở trước bụng. Tùy thuộc vào nhóm dân tộc Nùng khác nhau mà cách đội khăn và họa tiết trang trí khăn sẽ có sự khác biệt đôi chút
8. Dân tộc Dao
Dân số dân tộc Dao: 891.151 người
Dân tộc Dao cũng được chia nhỏ thành từng nhóm khác nhau khá đa dạng. Ví dụ như: Dao Đỏ, Dao Lô Gang, Dao Quần Trắng,.. Mỗi nhóm thì lại sống ở các khu vực khác nhau và có những trang phục, văn hóa rất riêng.
Cùng chung sống trên đất nước Việt Nam cũng góp phần lớn đến công cuộc giúp cho bức tranh bản sắc văn hóa 54 dân tộc anh em trở nên đa dạng, phong phú hơn đó chính là dân tộc Dao. Người Dao thường sinh sống đông ở những tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc. Với nghề nương rẫy, thổ canh làm ruộng là chính, những sản phẩm nông nghiệp người dân tộc Dao trồng trọt thường là lúa, ngô, các loại cây rau như khoai, bầu, bí,.. Ngành nghề trồng bông để dệt vải ở một số bản làng người Dao cũng rất phổ biến. Ngoài ra các nghề rèn, thợ bạc cũng là những điểm mạnh của người Dao.
Họ có một nền văn hóa ngôn ngữ, chữ viết và kho tàng thơ ca, mỹ thuật, dân vũ,.. cực kỳ tiêu biểu. Tín ngưỡng của người Dao chính là Đa thần nguyên thủy, họ tin tưởng rằng trong bất cứ vật gì cũng sẽ đều có 1 phần linh hồn trong đó và nó cũng thể hiện rõ trong những nghi lễ mà họ thực hiện hằng năm. Nổi bật như là lễ Tết Nhảy, lễ Cấp Sắc.
Đặc biệt người Dao có một nền kiến thức y học rất phong phú vì sống trên khu vực núi rừng nên khi ốm đau người dân chủ có thể tự chữa trị thông qua hái lá thuốc mọc tự nhiên trong rừng. Từ đó tích lũy được rất nhiều bài thuốc hay, quý chữa được nhiều bệnh khác nhau như là ngứa, lở loét, đau nhứt xương, đau đường ruột,..
Ta có thể dễ dàng nhận biết những người dân tộc Dao dựa theo bộ trang phục rực rỡ sắc màu, chủ đạo là tông đỏ với áo dài, yếm, váy,.. Tất cả đều được thêu hoa văn chi tiết, cẩn thận.
9. Dân tộc Hoa
Dân số dân tộc Hoa: 749.466 người
Người dân tộc Hoa có nét văn hóa sinh sống trong các gia đình lớn khi một gia đình có thể sẽ từ 4 – 5 đời với đông đúc đến vài chục người cùng sinh sống với nhau. Hiện nay thì các gia đình người Hoa đã dần tách ra sống thành những hộ gia đình nhỏ nhưng những họ hàng vẫn sống rất gần gũi chứ không quá xa cách.
Thường hôn nhân của người Hoa sẽ do gia đình quyết định, họ chú trọng rất nhiều đến sự đồng đều về hoàn cảnh kinh tế cũng như địa vị xã hội trong quá trình chọn lựa gia đình kết thông gia – hay được gọi là “môn đăng hộ đối”
Người dân tộc Hoa cũng có tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên và bên cạnh đó cũng thờ rất nhiều vị thần, Phật khác như là thần bếp, thổ địa, thần tài, quan công, Bà Thiên Hậu, Nam Hải Quan Âm,.. Các chùa miếu thờ cúng cũng là nơi diễn ra nhiều lễ hội, các hoạt động sinh hoạt cộng đồng của người Hoa
Nói đến văn hóa nghệ thuật thì dân tộc Hoa cực kỳ phong phú từ ca hát, múa quyền, múa sư tử, chơi đánh cờ,.. Nổi bật là ca kịch và nhiều loại dụng cụ tạo ra âm thanh như sáo, lồ lô, nhị, não bạt, đàn tỳ bà,..
10. Dân tộc Gia Rai
Dân số dân tộc Gia Rai: 513.930 người
Một dân tộc sinh sống tại vùng đất Tây Nguyên mà chúng ta không thể không nhắc đến chính là Gia Rai. Nhắc đến người Gia Rai thì chúng ta cũng sẽ nghĩ ngay đến những ngôi nhà Rông – nó như biểu tượng của cộng đồng và văn hóa của người dân tộc này.
Người dân tộc Gia Rai có rất nhiều lễ hội đặc sắc khác nhau như là lễ cầu an, lễ cầu mưa, lễ cúng nhà Rông mới, lễ bỏ mã,..
Trong trang phục của người nam Gia Rai sẽ đóng khố, mặc áo đen cộc tay hở nách với đường viền trang phục sẽ sử dụng các đường chỉ màu chị dọc 2 sườn. Còn trang phục nữ Gia Rai sẽ là những loại áo cánh ngắn bó sát vào thân, có tay dài và váy chàm có viền hoa văn chạy quanh phần gấu. Ở cạp sẽ có tua chỉ màu.. Trên tất cả trang phục đều có họa tiết hoa văn rất độc đáo
Ngoài nhà Rông thì người Gia Rai còn nổi tiếng bởi rượu cần, đàn T’rưng, đàn K’lông pút, cây nêu,..
11. Dân tộc Ê Đê
Dân số dân tộc Ê Đê: 398.671 người
Người dân tộc Ê Đê sinh sống chủ yếu đông đảo ở những vùng cao nguyên như là Đak Lak, Dak Nông,.. tại đây người dân sẽ sinh sống theo buôn làng. Họ sử dụng ngành nghề chính là canh tác trồng nương rẫy.
Bến nước được biết đến như là bản sắc của người Ê Đê, nó được xem là nhu cầu cơ bản và là nơi mà người dân cần tìm kiếm và có được trước khi quyết định lập buôn sinh sống lâu dài. Người chủ của bến nước sẽ có nhiệm vụ bảo vệ lấy nguồn nước ở đây với tính gia truyền qua nhiều thế hệ, tuy nhiên tất cả đều là nữ thuộc họ mẹ (theo chế độ mẫu hệ).
Vì tuân theo chế độ mẫu hệ nên hầu như trong bất kỳ lễ hội nào thì người phụ nữ trong gia đình đều sẽ là người được mời uống rượu trước rồi sau đó mới đến nam giới. Còn với chuyện làm rẫy thì người phụ nữ chủ gia đình sẽ có nhiệm vụ đốt rẫy, gieo hạt, chăm sóc và thu hoạch đưa lúa về nhà. Trong hôn nhân thì người chủ động tìm kiếm bạn đời cũng sẽ là nữ giới. Người được thừa kế tài sản trong gia đình từ mẹ, bà của mình sau khi họ qua đời sẽ là đứa con gái út.
Bên cạnh cồng chiêng như một nét đẹp chung cho nhiều dân tộc vùng Tây Nguyên thì người Ê Đê còn có một hình thức văn hóa nghệ thuật rất độc đáo khác là kể chuyện thông qua ngôn ngữ vừa kể vừa hát (Klei khan), đồng thời đó cũng là rất nhiều câu chuyện sử thi đặc sắc đã lưu truyền qua nhiều thời gian, các lớp thế hệ như Dăm San, Dăm Ji, Dăm Tiông, Dăm Trao Dăm Rao, Sing Nhã, Khing Jú,..
12. Dân tộc Ba Na
Dân số dân tộc Ba Na: 286.910 người
Người dân tộc Ba Na thường có thói quen sinh sống gần những khu vực gần với núi rừng thiên nhiên sông suối. Ngoài làm ruộng nước thì người Ba Na còn làm nhiều ngành nghề thủ công như là đan lát, dệt, gốm, rèn,. Trong đó nổi bật nhất chính là dệt thổ cẩm. Tất cả sản phẩm dệt thổ cẩm đều được thực hiện bằng tay với họa tiết tinh tế, có nhiều gam màu tạo ấn tượng như đỏ, đen, trắng,.. Mỗi sản phẩm đều phản ánh quan niệm tâm linh vũ trụ, triết lý âm dương trời đất.
Ở mỗi ngôi nhà người Ba Na đều sẽ có trồng một cây cúng thường nằm trước nhà đối diện với phía cổng chính. Mỗi dịp đến lễ hội, thờ cúng, đám cưới, đám tang,.. trong nhà đều sẽ thực hiện trước các cây cúng này nhằm giao tiếp với tổ tiên, thần linh
Nền văn hóa dân gian của người dân tộc Ba Na cũng rất đặc sắc phải kể đến trường ca, truyện cổ, múa dân gian và nhiều loại nhạc cụ dân tộc độc đáo, thú vị. Người Ba Na cũng có rất nhiều lễ hội đặc sắc phải kể đến như là lễ tạ ơn ba mẹ, lễ đâm trâu, lễ bỏ mả, lễ tạ ơn thần lúa,.. Đây là dịp người dân cảm tạ công ơn đất trời đã giúp cho mùa màng bội thu và cũng còn là dịp người dân tụ họp vui chơi, cùng nhau đánh cồng chiêng, uống rượu cần,..
13. Dân tộc Xơ Đăng
Dân số dân tộc Xơ Đăng: 212.277 người
Người Xơ Đăng sử dụng ngôn ngữ là tiếng Xơ thuộc loại ngôn ngữ Môn – Khơ me. Họ là những người sinh sống lâu năm tại khu vực Trường Sơn, Tây Nguyên và những khu vực lân cận với Quảng Nam, Quảng Ngãi. Người dân Xơ Đăng chủ yếu làm rẫy trồng lúa, ngoài ra còn có trồng trọt một số loại ngô, sắn, chuối, mía, thuốc lá,.. Người Xơ Đăng cũng có tín ngưỡng thờ Đa Thần, họ có rất nhiều nghi thức cúng bái để giao tiếp với các lực lượng siêu nhiên nhằm mục đích cầu bình an, cầu mùa màng và mong tránh khỏi các xui xẻo cho cộng đồng người dân.
Tùy thuộc vào từng khu vực sinh sống mà phong tục người Xơ Đăng từng vùng sẽ nhiều đổi khác. Tuy nhiên họ vẫn duy trì chế độ nhiều thế hệ cùng sinh sống với nhau trong một ngôi nhà sàn dài. Hôn nhận của người Xơ Đăng rất độc đáo, chú rể và cô dâu sẽ thay phiên ăn chung 1 cái đùi gà, ăn chung 1 mâm cơm và đưa rượu cho nhau cùng uống để ngụ ý về sự gắn kết giữa 2 bên. Thông thường trong quá trình kết hôn thì họ sẽ không ở cố định về phía nhà trai hay nhà gái mà sẽ có sự thay đổi luân phiên mấy năm một lần. Đến khi cha mẹ qua đời thì mới cố định.
Người Xơ Đăng gắn liền với rất nhiều làn điệu dân ca, điệu hát và những điệu múa cùng với những loại nhạc cụ khác nhau được sử dụng trong các dịp lễ hội. Kho tàng truyện cổ của người Xơ Đăng cũng rất đa dạng và độc đáo bạn sẽ có dịp nghe các già làng kể chuyện khi được đến khu vực người Xơ Đăng sinh sống.
Với phần trang phục truyền thống có tông màu chủ đạo là đen, nam sẽ đóng khố và cởi trần, chỉ những dịp lễ đặc biệt thì họ mới quấn thêm một tấm vải chéo trên ngực. Còn nữ sẽ có váy, áo cụt tay và một tấm khăn vai được dệt từ những sợi bông có màu sắc đa dạng nhưng vẫn có chủ đạo là đen. Trang phục của người Xơ Đăng khá giống với đông đảo các dân tộc khác sinh sống ở Tây Nguyên nhưng có điểm khác biệt đó chính là ở hoạt tiết hoa văn trên trang phục.
14. Dân tộc Sán Chay
Dân số dân tộc Sán Chay: 201.398 người
Nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống sản xuất của người dân tộc Sán Chay. Họ thường sinh sống tập trung thành làng để tạo tính đoàn kết gắn bó với nhau. Người dân tộc Sán Chay chắc chắn quen thuộc điệu Múa Tắc Xình, một trong những di sản văn hóa cần được bảo tồn. Ngoài ra, còn có lễ hội Cầu Mùa khá độc đáo của người dân tộc Tắc Xình.
Đối với người dân tộc Sán Chay sẽ được chia thành nhiều họ khác nhau và với mỗi họ sẽ có một điểm khác biệt nhất định, họ sẽ có một thần linh thờ cúng nhất định. Điểm độc đáo trong hôn nhân của người Sán Chay đó là tuy là nhà trai sẽ tổ chức đám cưới cho con nhưng sau khi kết hôn thì cô dâu sẽ trở về sinh sống với ba mẹ đẻ và chỉ thỉnh thoảng mới về lại nhà chồng. Đến khi có thai thì lúc này cả hai mới thật sự chuyển về nhà chồng để ở hẳn
Trong văn hóa nghệ thuật dân gian của người Sán Chay cũng có rất nhiều thơ, ca, ngạn ngữ cổ. Nổi bật nhất là sình ca – một hình thức diễn xướng dân gian đặc sắc của người dân tộc Sán Chay. Trong mỗi dịp lễ hội thì người Sán Chay sẽ sử dụng nhiều nhạc cụ như thanh la, chuông, kèn, não bạt,.. đi kèm đó là các điệu múa trống, múa chim gâu, múa đâm cá, múa xúc tép,..
Trang phục của người Sán Chay thông thường khá giống với người dân tộc Tày hoặc là người Kinh. Người phụ nữ Sán Chày trong đời thường sẽ có một chiếc dây đeo bao dùng thay thế cho thắc lưng và đến các dịp lễ tết thì họ sẽ thắt từ 2 – 3 chiếc thắt lưng vải với nhiều màu sắc khác nhau để làm điểm nhấn.
15. Dân tộc Cờ Ho
Dân số dân tộc Cờ Ho: 200.800 người
Người dân tộc Cờ Ho hay còn biết đến là Cơ Ho, K’ho,.. là người dân tộc sinh sống chủ yếu ở khu vực phía Nam Tây Nguyên nước ta. Họ thường sống ở các vùng núi cao, tách biệt nhiều với các dân tộc khác nên gần như vẫn giữ được rất nhiều nét đẹp văn hóa riêng của dân tộc mình. Người Cờ Ho chủ yếu sản xuất nông nghiệp và lâm thổ sản là chính. Là dân tộc cũng có tín ngưỡng Đa Thần khi cũng tin tưởng rất nhiều vào sự tồn tại của những năng lực siêu nhiên từ thần Mặt Trời, thần Núi, thần Mặt Trăng, thần Đất,.. vào những dịp sự kiện quan trọng trong buôn làng thì người dân sẽ tổ chức các lễ cúng bái để nhằm liên hệ với thần linh nhờ giúp đỡ.
Trong đời sống xã hội thì hiện tại người Cờ Ho vẫn tuân theo chế độ mẫu hệ, người chủ gia đình vẫn là người phụ nữ. Sau khi kết hôn thì người đàn ông sẽ về nhà vợ sinh sống, con cái trong nhà sẽ theo họ của mẹ. Đặc biệt là người Cờ Ho rất cấm kỵ việc kết hôn trong cùng dòng họ với nhau. Hôn nhân của người dân tộc Cờ Ho luôn có sự tôn trọng, ưng thuận của hai bên chứ không có ý ép buộc.
Trước kia trong ẩm thực thì người Cờ Ho chủ yếu nấu trong các ống nứa nhưng sau này đã sử dụng nhiều loại dụng cụ bằng đất nung, đồng,.. Nước uống sẽ được người dân đựng trong những quả bầu khô hay ghè. Thức ăn đều được chế biến để thuận tiện cho hoạt động bốc.
Văn học nghệ thuật dân gian của người Cờ Ho cũng cực kỳ đặc sắc. Họ có rất nhiều thơ ca trữ tình, hơn 400 câu truyện cổ tính, nhiều trường ca, vũ khúc thường dùng cho các dịp lễ hội. Nhạc cụ cũng có nhiều loại như là cồng kiêng, đàn ống tre, kèn ống bầu,.. Người Cờ Ho cũng có 1 dịp Tết lớn kéo dài từ 7 – 10 ngày sau khi mà họ đã thu hoạch mùa màng xong mang ý nghĩa đón lúa mới về nhà. Dịp này sẽ được tổ chức ngoài trời và người dân sẽ thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để tổ chức lễ, chia thịt cho các gia đình khác trong buôn.
16. Dân tộc Sán Dìu
Dân số dân tộc Sán Dìu: 183.004 người
Người Sán Dìu sử dụng ngôn ngữ Sán Dìu thuộc nhóm hệ Hán và hiện ngôn ngữ này vẫn còn được gìn giữ, sử dụng trong giao tiếp sinh hoạt ở các gia đình nhiều thế hệ sinh sống, các thầy thuốc, thầy cúng,.. Tuy là dân tộc ít người có nhiều họ khác nhau nhưng khi người dân tộc Sán Dìu gặp và nhận ra được nhau thì sẽ sử dụng câu chào nhau “San Déo loỏng si” – ý chỉ người Sán Dìu ít ỏi nên cần yêu thương và đùm bọc lẫn nhau.
Một điểm đặc biệt không thể không nhắc đến trong văn hóa đặc trưng của người Sán Dìu chính là ở nền ẩm thực độc đáo mà người dân tộc này sở hữu. Họ chế biến các món ăn khá cầu kỳ và có sử dụng rất nhiều loại gia vị khác nhau như là địa liền, gừng, tỏi,.. Tất cả thức ăn người Sán Dìu sử dụng thì đều phải nấu nóng để vừa ăn vừa thổi chứ không được để nguội lạnh. Họ cũng có rất nhiều loại bánh khác nhau như là bánh chưng gù, bánh chưng hình ống, bánh nhân điền, bánh tro,.. Tất cả đều sử dụng trong các dịp lễ tết, cưới hỏi. Nhưng riêng bánh nhân điền và bánh dày chỉ dùng chủ yếu trong các đám ma
Vào những dịp thông thường thì người nam giới Sán Dìu sẽ mặc quần đùi cộc màu tối hoặc quần dài màu tối có cạp chun, 2 túi. Áo được may theo kiểu bà ba mặc dài ngang đùi có 2 túi. Còn nữ giới sẽ luôn mặc 2 áo theo cặp với cáo trong luôn sáng màu hơn áo ngoài, phía áo ngoài sẽ may kiểu 3 vạt, dài quá gối và có đeo yếm, đội khăn đen hình mỏ quạ
Còn vào những ngày lễ hội thì có thể mặc các trang phục ngày thường nhưng mới hơn, đi guốc mộc và đội khăn gấm hoặc nhung. Trang sức của nữ giới Sán Dìu không nhiều như những dân tộc khác chỉ có khuyên tai, nhẫn bạc, vòng tay bằng bạc và một săn su quả đào đựng trầu.
17. Dân tộc Chăm
Dân số dân tộc Chăm: 178.948 người
Dân tộc Chăm nằm trong danh sách 5 dân tộc nói ngôn ngữ Nam Đào, bao gồm: Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru, Raglai và người Chăm. Họ sống chủ yếu ở Tây Nguyên với nét văn hóa truyền thống nổi bật nhất là mẫu hệ.
Người Chăm sinh sống tập trung chủ yếu ở những khu vực duyên hải miền Trung nước ta. Nổi bật là ở tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận. Người Chăm sử dụng chữ quốc ngữ là kiểu chữ Phạn Ả Rập đã du nhập vào Chiêm Thành từ những năm ở thế kỷ thứ II nhưng đã có một số thay đổi nhất định. Họ sinh sống chủ yếu nhờ những ngành nghề liên quan đến chăn nuôi, làm gốm và dệt.
Những nét phong tục tập quán của người Chăm mang nhiều dấu ấn của Hồi giáo và Bà la môn từ các lễ cúng thần linh, nghi thức cưới xin, người chết thì đem thiêu,.. Họ cũng là dân tộc mang tính mẫu hệ bản địa khi sau khi mất thì sẽ có nghi lễ nhập Kút nhằm đưa xương cốt các người cùng họ mẹ về cùng một nơi tại nghĩa trang quê mẹ.
Người Chăm cổ đã để lại rất nhiều di sản quý giá nổi bật nhất phải kể đến những ngôi đền bằng gạch nung mang phong cách tháp Ấn Độ độc đáo và các tác phẩm điêu khác đẹp tuyệt mỹ. Những phương thức nung cũng như cách xây dựng nên những ngôi đền này vẫn còn là điều bí ẩn. Các vị thần sẽ được người Chăm thờ phụng trong những ngôi đền này. Phải kể đến như là bộ 3 vị thần lớn của Ấn Độ Brahma (thần sáng tạo), Vishnu (thần bảo vệ), Shiva (thần hủy diệt), thần Linga và thần Yoni tượng trưng cho sinh sản,..
Người dân tộc Chăm cũng có rất nhiều nghi lễ, lễ hội đặc sắc như là lễ cúng nhà mới, lễ trưởng thành, lễ nhập Kút, lễ Ramuwan, lễ hội Kate để tưởng nhớ các vị vua và thần Po Nugar, lễ Riji Praung,..
Người dân tộc Chăm có rất nhiều món ăn đặc trưng riêng cho dân tộc mình. Như là món canh bồi được nấu bằng nhiều loại rau băm nhỏ và trộn với gạo đã được giã nhuyễn, món Ga Pội giống như là cà ri nhưng được chế biến thành dạng cơm rang. Món Pài Pa Ghênh của người Chăm là kiểu gạo xay nhuyễn thành thính nấu chung với nhiều loại rau củ, khi chín sẽ cho thêm mắm bò hóc của người Khmer và tạo thành món ăn cùng bún hoặc cơm,.. Hay là các món tung lò mò, bánh tổ chim, bánh gang tay,..
18. Dân tộc Hrê
Dân số dân tộc Hrê: 149.460 người
Người dân tộc Hrê được biết đến với nhiều tên gọi khác như là Chom, Chăm rê, Kre,.. họ sinh sống chủ yếu ở khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Ngôn ngữ người Hrê sử dụng thuộc nhóm ngôn ngữ của Môn – Khmer, khá gần với ngôn ngữ của dân tộc Ba Na và Xơ Đăng. Người Hrê sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, nuôi heo và các loại gia cầm. Họ cũng làm nhiều nghề thủ công đan lát, dệt thổ cẩm và rèn.
Người Hrê cũng rất yêu thích văn hóa nghệ thuật khi từ xa xưa họ đã biết sáng tác thơ ca, mê đàn hát và sở hữu rất nhiều loại nhạc cụ độc đáo có thể kể đến như là đàn Brook, sáo ling la, ống tiêu la lía, ching ka la, khèn ra vai,.. 2 làn điệu dân ca quen thuộc và nổi tiếng của người dân tộc Hrê đó là Ka choi và Ka lêu
Vì là dân tộc rất yêu quý, coi trọng cộng đồng dân tộc của mình nên khi có các lễ hội diễn ra thì hầu như mỗi gia đình đều sẽ cử người tham gia góp công sức thực hiện. Điển hình nhất chính là lễ đâm trâu, các lễ cúng bái trong làng.
Trang phục truyền thống của người Hrê đối với nam giới sẽ đóng khố, ở trần hoặc mặc một áo cánh ngắn đến phần thắt lưng. Nữ giới sẽ mặc loại váy 2 tầng, áo 5 thân và trên đầu sẽ có trùm khăn. Tuy là ngày nay nhiều gia đình người dân tộc Hrê đã dần ăn mặc như người dân tộc Kinh. Tuy nhiên phong tục quấn khắn, trùm khăn của họ thì vẫn được gìn giữ.
19. Dân tộc Raglai
Dân số dân tộc Raglai: 146.613 người
Người Raglai hay còn gọi với nhiều tên khác như là Ra Glai, Ra Giây, Rang ngok,.. được biết là một nhánh của người dân tộc Chăm. Họ sinh sống chủ yếu ở khu vực tỉnh Ninh Thuận và Khánh Sơn, Khánh Hòa nước ta. Ngôn ngữ sử dụng của người Raglai là thuộc hệ ngôn ngữ chi Maylay – Polynesia của hệ Nam Đảo.
Người Raglai quan niệm khu vực thung lũng là lối đi của ma quỷ, sống lưng của những đồi núi là nơi mà các vị thần làm đường đi lại, do đó chit có lưng chừng núi mới là nơi mà con người có thể ở. Họ sẽ sinh sống ở những khu đất cao, bằng phẳng, gần các sông ngòi để có được nguồn nước sinh hoạt cũng như dùng cho các hoạt động sản xuất. Người dân tộc Raglai sẽ sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa và ngô, khoai, củ quả. Những ngành nghề làm gốm, đan lát, rèn,.. vẫn có tuy nhiên còn khá thô sơ, chỉ để đảm bảo phục vụ sinh hoạt và sản xuất.
Họ cũng nằm trong số các dân tộc sống theo quan niệm mẫu hệ. Ngoài quyền hạn của người mẹ trong nhà thì tiếng nói của cậu cũng khá quan trọng. Các tục con gái bắt chồng vẫn được giữ lại, khi để mắt đến chàng trai nhà nào thì sẽ nói với cha mẹ để lo lễ cưới chồng. Con cái khi sinh ra sẽ theo họ mẹ và con gái út sẽ là người được thừa hưởng tài sản. Người này cũng có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ khi về già. Tuy nhiên khi lấy vợ là người dân tộc khác thì lúc này gia đình đó sẽ sống theo chế độ phụ hệ.
Trong văn hóa nghệ thuật dân gian người Raglai có rấy nhiều truyện thần thoại, trường ca, truyện cổ tích có tính nghệ thuật cao, mang giá trị lịch sử cũng như tính giáo dục. Cứ sau mỗi vụ thu hoạc thì cả làng sẽ cùng nhau tụ họp để cúng Giàng và ăn mừng lúa mới. Trong các dịp sinh hoạt, lễ lộc thì người Raglai sẽ thường có tổ chức các hình thức hát đối đáp, sử dụng những nhạc cụ dân tộc để góp vui như là đàn đá, đàn salaken, kèn môi, đàn bầu, mã la,..
20. Dân tộc Mnông
Dân số dân tộc Mnông: 127.334 người
Đây được biết là dân tộc đã sinh sống lâu đời tại miền Trung Tây Nguyên Việt Nam. Người Mnông chủ yếu sống bằng nghề trồng nương rẫy với phương pháp đao canh hỏa chủng. Là phương pháp phát quang, đốt và chọc lỗ để tra hạt trồng cây. Lúa được trồng theo phương pháp đao canh thủy nậu. Là hình thức gieo hạt trồng trên đầm lầy và sử dụng trâu cày để nhão đất chứ không cấy mạ.
Bên cạnh những ngành nghề đan lát, rèn nông cụ, làm gốm thì nghề săn bắn – thuần dưỡng voi rừng của người dân tộc Mnông ở khu vực Buôn Đôn cực kỳ nổi tiếng. Tuy nhiên ngày nay số lượng voi săn bắn đã được giảm đi nhiều.
Thường người dân Mnông sẽ sinh sống thành các bon hay uôn và hầu hết các gia đình trong làng đều là những nhà có quan hệ huyết thống với nhau tập trung sinh sống. Người Mnông vẫn sống theo chế độ mẫu hệ với người phụ nữ chủ động trong hôn nhân hơn, sau khi kết hôn sẽ sinh sống ở nhà gái và con cái sinh ra sẽ theo họ mẹ. Tuy nhiên tùy thuộc và một số địa phương thì chế độ này đã dần tan rã.
Điểm đặc biệt trong hôn nhân của người Mnông đó là họ rất coi trọng chế độ 1 vợ 1 chồng, trong luật tục của người dân tộc Mnông thì những người loạn luân hay ngoại tình sẽ bị phạt tội rất nặng.
Vì chưa có hệ thống chữ viết nên chỉ có hệ thống văn chương truyền miệng qua các thế hệ là chủ yếu. Có rất nhiều truyện cổ, sử thi, ca dao tục ngữ truyền miệng được người dân lưu giữ qua khoảng thời gian dài nhiều thế hệ. Họ cũng có một hệ thống nhạc cụ đặc sắc như là kèn bầu, cồng chiêng, kèn môi, đàn độc huyền, sáo dọc,..
21. Dân tộc X’Tiêng
Dân số dân tộc X’Tiêng: 100.752 người
Người dân tộc X’Tiêng đã cứ trú lâu đời ở khu vực tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng nước ta, và hiện nay đã và đang sinh sống xen kẽ với rất nhiều dân tộc khác như là Kinh, Chăm, Mnông, Khmer ở các tỉnh phía Nam. Tùy theo khu vực sinh sống mà người X’Tiêng sẽ có thể làm ruộng nước hoặc làm nương rẫy để sinh sống.
Trong phong tục hôn nhân thì người X’Tiêng sẽ kết hôn khá sớm, con trai thường tầm từ 19 đến 20 tuổi còn nữ sẽ từ 15 – 17 tuổi. Tùy thuộc từng khu vực người dân tộc X’Tiêng khác nhau mà sẽ có các tập tục sống tại nhà gái hay nhà trai. Tuy nhiên họ kết hôn khác dòng họ.
Người X’Tiêng rất yêu thích âm nhạc và loại nhạc cụ yêu thích nhất của họ chính là bộ chiêng 6 cái, khèn bầu và cồng. Họ sử dụng chiêng để thể hiện tình cảm, giải quyết xích mích giữa các gia đình với nhau. Chiêng ngoại trừ lễ đâm trâu thì không được gõ bên ngoài nhà.
Trang phục truyền thống của người X’Tiêng khá đơn giản khi người nam sẽ đóng khố và nữ giới sẽ mặc váy. Họ để tóc dài đẻ búi ra sau gáy, có đeo hoa tai bằng các đồ trang sức gỗ, ngà voi và cả nam hay nữ đều thích đeo các loại vòng trang sức. Họ còn xăm mình và xăm mặt bằng các hoa văn đơn giản.
22. Dân tộc Bru Vân Kiều
Dân số dân tộc Bru Vân Kiều: 94.598 người
Đây là dân tộc sử dụng ngôn ngữ của người Bru, thuộc ngôn ngữ chi Cơ Tu của ngữ tộc Môn – Khmer. Bru Vân Kiều được biết đến là 1 trong số các dân tộc thiểu số của Việt Nam. Ban đầu người Bru Vân Kiều sinh sống tại vùng trung Lào nhưng sau nhiều biến động của lịch sử nên hiện nay có một số đông sinh sống ở những khu vực miền núi các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, một số đi đến tây bắc sang Thái Lan.
Trong hôn nhân thì người Bru Vân Kiều sẽ chịu nhiều quyết định vởi người cậu trong nhà. Khi đám cưới người Bru Vân Kiều có tập tục nhà trai sẽ trao lại cho nhà gái 1 thanh kiếm. Sau khi rước dâu về sẽ phải trải qua rất nhiều nghi thức phức tạp khác nhau.
Ngoài kiến trúc nhà sàn nhỏ thường xây dựng dọc theo con suối hay xếp thành vòng tròn để quây quần bên nhau rất độc đáo thì âm nhạc cũng là yếu tố đặc biệt của người Bru Vân Kiều. Họ sở hữu rất nhiều loại nhạc cụ khác nhau như là chiêng núm, trống, thanh la, nhiều loại kèn (kèn ta riềm, kèn amam,..), các loại đàn (đàn pơ kua, đàn achung,..) và những làn điệu dân ca như sim hay chà chấp được biết đến là những nét đẹp văn hóa nghệ thuật nổi tiếng của người dân tộc Bru Vân Kiều
Lễ hội nổi tiếng nhất của người Bru Vân Kiều phải kể đến lễ hội đập trống diễn ra vào ngày 16 tháng giêng âm lịch hàng năm nhằm mục đích mừng trăng mới.
23. Dân tộc Thổ
Dân số dân tộc Thổ: 91.430 người
Đồng bào dân tộc Thổ thuộc nhóm dân tộc Việt – Mường thường cư trú nhiều ở khu vực phía tây Nghệ An. Ngôn ngữ của người Thổ thuộc hệ ngôn ngữ chi Việt trong hệ Nam Á. Tùy theo từng nhóm dân tộc Thổ khác nhau mà sẽ có phần ngôn ngữ, ngữ âm có đôi chút khác biệt.
Người Thổ sẽ sống bằng nghề làm rẫy, trồng lúa, trồng cây lá gai là chính. Trong đó lá gai khi thu hoạch có thể dùng để đan lát thành nhiều loại vật liệu sử dụng như là lưới bắt cá, lưới săn thú, võng, túi đeo.. Trước kia họ có ngành nghề dệt vải nhưng sau do điều kiện canh tác và có giao lưu với nhiều nền văn hóa của các dân tộc khác nên đã ngày càng mai một dần đi.
Người dân tộc Thổ có tục “ngủ mái” đó là trong những dịp lễ hội thì nam nữ có thể nằm tâm tình với nhau để từ đó chọn bạn trăm năm làm vợ chồng. Tuy nhiên các hoạt động thiếu đúng đắn sẽ không được cho phép vì luật lệ người Thổ rất nghiêm minh trong vấn đề này. Trước khi kết hôn thì người nhà trai sẽ cần phải đến làm việc cho nhà vợ tương lai để kiểm tra sức khỏe và lễ cưới nếu diễn ra thì phía nhà trai cũng cần bỏ ra rất nhiều tiền của.
Trước kia thì người dân tộc Thổ có rất nhiều ca dao tục ngữ, truyện cổ, đồng dao, điệu hát đặc sắt nhưng song theo thời gian thì chúng đã dần bị mất mát nhiều. Hiện nay vào mỗi dịp lễ hội thì các đôi trai gái người Thổ sẽ cùng nhau tham gia đối hát và uống rượu cần, múa hát dưới tiếng cồng chiêng.
24. Dân tộc Khơ Mú
Dân số dân tộc Khơ Mú: 90.612 người
Người Khơ Mú hay còn biết đến là người Xá Cẩu, Tày Hạy, Tềnh, Mứn Xen,.. Họ sinh sống nhiều tại khu vực các tỉnh Nghệ An, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hóa, Yên Bái,.. Người Khơ Mú sống bằng nghề nương rẫy là chính, trong đó các loại cây trồng phổ biến là lúa, ngô, sắn, khoai,.. Họ cũng có nuôi các gia súc và gia cầm tuy nhiên chỉ để phục vụ những dịp lễ lộc hay tiếp khách.
Họ mà người Khơ Mú sử dụng sẽ thường có liên quan đến tên của các loài thú rừng, chim hay một loại cây nào đó vì họ xem đây như là tổ tiên ban đầu của mình. Và mỗi dòng họ lại có một huyền thoại để kể về lai lịch tổ tiên riêng, rất đặc sắc.
Trong hôn nhân của người Khơ Mú khá bình đẳng và họ cũng sống rất chung thủy với nhau. Sau khi kết hôn thì chú rể sẽ ở nhà gái 1 năm sau đó mới đưa vợ về nhà mình. Và trong giai đoạn ở nhà vợ nếu sinh con thì con sẽ mang họ mẹ, còn khi đã về nhà chồng thì khi sinh con sẽ mang họ cha.
Tuy người dân tộc Khơ Mú khá nghèo về vật chất nhưng đời sống tinh thần của họ lại rất phong phú và dồi dào. Họ rất tin vào những linh hồn và các loại ma như là ma trời, ma đất, ma mương, ma rừng,.. Người dân sẽ có các nghi lễ để thờ cúng. Và trong dịp Tết thì không như những dân tộc khác người Khơ Mú sẽ nhặt sỏi để dự đoán đầu năm cũng như múc nước về chia cho mọi người trong nhà cùng nhau uống, gọi là tập tục uống nước mới.
25. Dân tộc Cơ Tu
Dân số dân tộc Cơ Tu: 74.173 người
Người Cơ Tu thường sinh sống bằng việc trồng cây lương thực và thu hái lâm thổ sản và chỉ có duy nhất 1 mùa làm rẫy trong năm, ngoài ra sẽ còn có các hoạt động kinh tế khác như dệt, đan lát, đánh bắt cá, săn bắn, trao đổi hàng hóa theo dạng vật đổi vật. Hiện nay khi đã có sự phát triển của du lịch thì một số ngành nghề liên quan đến bán các sản phẩm địa phương và trình diễn múa cồng chiêng trở nên nổi bật hơn.
Trong năm thì người dân tộc Cơ Tu sẽ có rất nhiều lễ hội lớn như là lễ mừng lúa mới, lễ đâm trâu, lễ cúng đất, lễ kết nghĩa.. Họ sẽ sử dụng các loại nhạc cụ để nhảy các điệu múa truyền thống mang tên Tungtung Yaya.
Điểm nổi bật trong trang phục của người Cơ Tu chính là ở các hoa văn trang trí được dệt hạt cườm và nhiều loại khác nhau và đi kèm với đó là các loại trang sức với những chất liệu như là bạc, cườm nhựa, răng nanh, mã não,..
Các tục xăm mình, xăm mặt, cưa răng hay đàn ông phải búi tóc sau gáy của người Cơ Tu đã dần được loại bỏ.
26. Dân tộc Giáy
Dân số dân tộc Giáy: 67.858 người
Dân tộc Giáy chung nhóm với những dân tộc Tày, Thái, Lào, Lự, Bố Y, Sán Chay. Họ đều sống chủ yếu ở các khu vực Tây Bắc nước ta. Văn hóa của nhóm các dân tộc này chính là sống ở nhà sàn, tận dụng địa hình vùng cao thung lũng để trồng ruộng bậc thang.
Nếp sống văn hóa, trang phục của nhóm dân tộc Tày – Thái cũng đa dạng, mỗi dân tộc đều sẽ có phong tục thờ cúng các vị Thần khác nhau nhưng đều quan niệm chung về liên kết vũ trụ – con người – các vị thần thánh.
27. Dân tộc Giẻ Triêng
Dân số dân tộc Giẻ Triêng: 63.332 người
Đồng bào dân tộc Giẻ Triêng là một trong số 6 dân tộc đã sinh sống lâu đời tại vùng đất Kon Tum. Họ sống chủ yếu tại những khu vực núi rừng hiểm trở nên những loại vật dụng dùng để vận chuyển đồ đạc là cõng, gùi, vách, xách, kéo,.. cực kỳ thông dụng. Họ sinh sống bằng nghề trồng trọt trên nương rẫy, trong đó sử dụng các nông cụ như nạo cỏ, cuốc, rìu,.. là chủ yếu chứ không nhiều máy móc. Ngoài ra người dân cũng còn nhiều hoạt động khác như là săn bắt, làm đồ thủ công, rèn,..
Người Giẻ Triêng trong tín ngưỡng vẫn rất tin tưởng vào thần linh nên có rất nhiều nghi lễ độc đáo diễn ra trong năm như là lễ mừng lúa mới, lễ mừng hôn nhân, lễ “cà răng”,.. Người dân tộc Giẻ Triêng ngoài phong tục sử dụng các loại lá, rễ và thân cây rừng để chữa bệnh thì vẫn giữ tập tục thực hiện các nghi lễ để cúng thần mỗi khi gặp các bệnh tật.
Trong hôn nhân thì quyết định kết hôn của con cái rất được ba mẹ tôn tọng và con gái sẽ là người chủ động trong việc kết hôn. Trước khi lập gia đình thì người nam sẽ phải biết đan lát, biết đánh cồng chiêng, con gái thì phải biết đan chiếu, dệt vải. Khi muốn lấy chàng trai nhà nào thì người con gái sẽ chuẩn bị 100 bó củi mang đến nộp cho nhà trai trong lễ cưới. Sau khi cưới xong thì cặp vợ chồng sẽ luân phiên sang ở nhà trai và nhà gái cứ khoảng 3 – 4 năm/ lần. Khi nào một trong 2 bên có cha mẹ qua đời thì mới bắt đầu định cư.
Trang phục truyền thống của người Giẻ Triêng rất đa dạng. Với nam giới sẽ thường mặc khố, khoác 1 chiếc áo choàng bên ngoài. Còn với nữ giới thì thường mặc váy được tạo bởi 2 tấm vải bông khâu ghép lại thành dạng hình ống. Váy có màu đen với nhiều họa tiết hoa văn có màu đỏ và trắng. Khi mặc thì váy sẽ được quấn cao ngang phần nách, che kín ngực và khoác thêm lên một tấm thổ cẩm để giữ ấm cho phần vai.
Đinh tút được biết đến là loại nhạc cụ tiêu biểu, tượng trưng cho văn hóa nghệ thuật của người dân tộc Giẻ Triêng. Chúng sẽ được dùng nhiều trong các dịp lễ hội, đặc biệt là hội Choóc đăil – lễ hội đinh tút của người dân tộc Giẻ Triêng.
28. Dân tộc Tà Ôi
Dân số dân tộc Tà Ôi: 52.356 người
Người dân tộc Tà Ôi thường sinh sống chính ở khu vực trên dải Trường Sơn nước ta. Họ có nhiều tên gọi khác nhau như là dân tộc Ta uôih, Ta uốt. Trước kia dân tộc Tà Ôi sống khá cách biệt với môi trường bên ngoài và thường sống chủ yếu nhờ hái lượm, săn bắn ở khu vực rừng sâu với rất nhiều thủ tục, văn hóa lạc hậu. Tuy nhiên sau đó nghe lời kêu gọi của Đảng và Nhà Nước ta nên đã ra khỏi rừng, sống hòa nhập cộng đồng và bắt đầu thực hiện các hoạt động kinh tế xóa đói giảm nghèo.
Với từng dòng họ người Tà Ôi khác nhau mỗi nơi sẽ có những tên gọi riêng cũng như các điều kiêng kỵ nhất định. Tuy nhiên họ sống theo chế độ phụ hệ, tất cả con cái đều sẽ mang họ cha. Và chỉ có người con trai mới được hưởng gia tài để lại về sau của cha mẹ.
Đời sống tín ngưỡng của người Tà Ôi cũng tin vào việc vạn vật đều tồn tại linh hồn và họ tin và thờ phụng rất nhiều vị thần như là thần nước, thần chỗ ở gia đình, thần nhà dài, thần hổ,..Hằng năm sẽ tổ chức các lễ cúng để cầu mong thần linh bảo vệ, chở che.
Trong hôn nhân gia đình thì các cặp đôi trai gái Tà Ôi sẽ được tự do tìm hiểu nhau. Họ sẽ đi “sim” – một tục lệ của người Tà Ôi để thử tìm hiểu bạn đời tuy nhiên sẽ không được làm những chuyện “chăn gối”. Sau đó nếu phù hợp sẽ trao các vật làm tin và phía nhà trai sẽ nhờ người mai mối sang hỏi cưới nhà gái.
Người dân tộc Tà Ôi cũng sở hữu kho tàng ca dao tục ngữ, câu đố, chuyện kể về nguồn gốc dòng họ, các bài học hay câu chuyện thể hiện tình yêu,.. cực kỳ phong phú. Những làn điệu dân ca trữ tình cũng là nét độc đáo của người Tà Ôi, có thể kể đến như: Rơin, Lum Tang Wai, Ka lơi,..
29. Dân tộc Mạ
Dân số dân tộc Mạ: 50.322 người
Tiếp tục trong bài viết Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam chính là dân tộc Mạ. Họ là dân tộc sinh sống chủ yếu ở khu vực các tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai với ngành nghề chính là làm nương rẫy, trồng lúa và các loại cây như bầu, bí, bông, thuốc lá,.. Họ cũng nuôi gia súc, gia cầm những thường sẽ để chúng sống thành đàn trong rừng. Và chỉ khi cần giết thịt thì mới bắt về làm thịt. Nghề dệt lụa và rèn sắt được biết là những nghề thủ công nổi tiếng của người dân tộc Mạ.
Người Mạ cũng tuân theo chế độ phụ hệ nhưng khi cưới thì chú rể sẽ phải sang ở nhà vợ. Đến khi nào nộp đủ phần sính lễ cho nhà gái thì mới đưa vợ về hẳn nhà mình.
Trong văn học dân gian thì người dân tộc Mạ có rất nhiều truyện cổ, huyền thoại, truyền thuất độc đáo nổi bật nhất là những câu truyện về rừng. Người Mạ cũng có nhiều dân ca trữ tình, chúng được gọi là tam bớt.
Trang phục dân tộc Mạ cũng rất nổi bật khi nam giới sẽ đóng khố, cởi trần hoặc mặc áo chui đầu có xẻ tà có các tua dài với nhiều họa tiết sặc sỡ. Nữ giới thì sẽ mặc váy, áo chui đầu hình chữ nhật đứng, vừa sát thân và không xẻ tà. Ở dưới thân áo và sau lưng có trang trí nhiều hoa văn sặc sỡ sắc màu.
30. Dân tộc Co
Dân số dân tộc Co: 40.442 người
Dân tộc Co cư trú chủ yếu ở huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam) và huyện Trà Bồng (tỉnh Quảng Ngãi). Người Co còn có tên gọi khác là: Cor, Col, Cùa, Trầu. Tiếng Co thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer.
Đồng bào người dân tộc Co sinh sống chủ yếu nhờ nghề rẫy với việc trồng trọt các loại cây lúa, ngô, sắn và quế. Đặc biệt là cây quế được người Co trồng cho năng suất và nguồn thu nhập ổn định
Trong cộng đồng của người Co thì các bô lão rất có tiếng nói và được kính trọng, người được tôn làm trưởng làng sẽ là người có nhiều kinh nghiệm về các phong tục, hiểu biết rộng về các cách sản xuất và ứng xử xã hôi,.. được dân làng rất kính trọng và tín nhiệm.
Người Co sẽ thường tìm hiểu nhau trước khi chính thức cưới xin, lễ cưới của họ cũng khá đơn giản không quá tốn kém. Trước kia thì hầu như người Co không kết hôn với những người dân tộc khác tuy nhiên ngày nay đã có rất nhiều nàng dâu, chàng rể là người Kinh, Hrê, Xơ đăng,..
Vì người dân tộc Co không dệt vải nên thường trang phục sẽ mua từ những dân tộc khác. Thường nam sẽ quấn khố, ở trần và nữ giới sẽ quấn váy, mặc áo yếm, áo cộc tay. Họ rất thích đeo vòng cổ, hoa tai, vòng tay bằng bạc hay các hạt cườm. Nhiều phụ nữ người Co quấn rất nhiều vòng cườm quanh phần lưng eo của mình.
31. Dân tộc Chơ Ro
Dân số dân tộc Chơ Ro: 29.520 người
Dân tộc Chơ Ro đã là một trong số 4 dân tộc sinh sống lâu đời tại khu vực Đồng Nai. Ngoài ra đồng bào Chơ Ro còn sinh sống nhiều ở những khu vực như Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận,.. Nguồn sống của người Chơ Ro chủ yếu là về ruộng nước, chăn nuôi, săn bắn, đan lát,..
Họ cũng thờ phụng rất nhiều vị thần khác nhau, vị thần tối cao trong tín ngưỡng người Chơ Ro chính là thần Yang N’du – vị thần sáng tạo nên thế giới, tiếp theo sẽ là thần Yang Koi – thần lúa, thần Tang Dah – thần nước, thần Yang Bri – thần rừng,.. Trong đó thì con số may mắn tượng trưng cho sự vẹn toàn, đủ đầy theo quan niệm của người Chơ Ro đó chính là số 7.
Người Chơ Ro không theo chế độ mẫu hệ hay phụ hệ mà họ tôn trọng như nhau. Vì ngày xưa không có hệ thống chữ viết nên hầu hết mọi câu chuyên lịch sử, các truyện dân gian đều sẽ được kể truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác. Trong đó sẽ có nhiều câu chuyện kể về sự ra đời của loài người, những tổ tiên của người Chơ Ro,..
32. Dân tộc Xinh Mun
Dân số dân tộc Xinh Mun: 29.503 người
Đồng bào dân tộc Xinh Mun sinh sống chủ yếu ở những tỉnh Lai Châu, Sơn La thuộc miền Bắc nước ta. Bên cạnh việc trồng lúa, làm nương rẫy thì săn bắt hái lượm cũng là hoạt động quan trọng trong đời sống của người dân Xinh Mun.
Trước kia người dân Xinh Mun chủ yếu sống du canh du cư, không cố định chỗ ở tuy nhiên dần về sau đã ổn định lập làng đông đúc và quây quần chung lại với nhau. Họ có rất nhiều tập quán vẫn được giữ vững qua thời gian như là ăn trầu, uống rượu cần, nhuộm răng và ăn những loại có gia vị cay nồng.
Trong hôn nhân của người Xinh Mun thì nhà trai sẽ phải đưa tiền cưới cho nhà gái. Sau khi làm lễ cưới và năm đến khi cô dâu chú rể đã có con thì lúc này phía nhà trai mới làm lễ đón dâu về. Trong suốt quá trình ở rể thì cả cô dâu và chú rể phải đổi tên riêng theo tên mà bố mẹ vợ, ông cậu hay thầy cúng đặt cho. Qúa trình sinh đẻ sẽ diễn ra ở nhà cô dâu, khi đứa trẻ đầy tháng thì sẽ mời thầy cúng về nhờ đặt tên hộ.
33. Dân tộc Hà Nhì
Dân số dân tộc Hà Nhì: 25.539 người
Người Hà Nhì ở Việt Nam hiện đang cư trú chính tại các tỉnh Lào Cai, Lai Châu nằm giáp với biên giới của Trung Quốc. Họ sử dụng ngôn ngữ Hà Nhì thuộc nhanh ngôn ngữ Di của nhóm Lô Lô, trong tộc ngữ tộc Tạng – Miến, Hán – Tạng. Người dân tộc Hà Nhì sống bằng nghề làm ruộng với hệ thống ruộng bậc thang cực kỳ nổi bật. So với những dân tộc khác thì người dân tộc Hà Nhì đã có nhận thức và trình độ học vấn tốt hơn.
Người dân tộc Hà Nhì chia thành rất nhiều họ khác nhau, và tên sẽ được đặt theo tên của người cha. Phần tên đệm được đặt theo tên của con vật ứng theo ngày sinh. Trước khi kết hôn thì nam nữ sẽ có thể tìm hiểu nhau, hẹn hò và hát giao duyên, đến khi ngủ thử với nhau thấy hợp thì phía nhà trai sẽ mang gạo, thịt, gà lợn sang hỏi cưới. Tùy khu vực người Hà Nhì mà sẽ có ở rể hoặc không.
Người dân tộc Hà Nhì có rấy nhiều lễ lớn trong năm như là: Tết truyền thống của người Hà Nhì – Hồ Sự Chà thường tổ chức sau khi mùa màng đã xong tầm tháng 11 dương lịch, tết thiếu nhi của người Hà Nhì sẽ được tổ chức sau Tết Nguyên Đán tầm 2 tuần để cho các trẻ em được sắm quần áo mới, vui chơi. Những ngày lễ cũng quan trọng không kém trong văn hóa người Hà Nhì đó là lễ gạ ma thú.lễ Khu già già, lễ Ga Tho Tho và các lễ cúng lúa mới, lễ ăn nếp mới,..
Ngoài các truyện cổ, thơ dài thì những nhạc cụ kèn lá, đàn môi, sáo dọc, đàn La Khư hay các điệu múa dân giân cũng là nét đẹp văn hóa đặc sắc của người dân tộc Hà Nhì.
34. Dân tộc Chu Ru
Dân số dân tộc Chu Ru: 23.242 người
Người Chu Ru hay còn biết đến là dân tộc Chơ Ru, Choru, Kru,.. là dân tộc sinh sống chủ yếu ở các tỉnh Ninh Thuận, Lâm Đồng. Họ sinh sống theo từng làng và có một người đàn ông cao tuổi đứng đầu để thực hiện các nghi lễ. Trong cộng đồng của người dân tộc Chu Ru cũng được phân chia thành nhiều nhóm khác nhau trong đó ngoài chủ làng, già làng, thầy cúng và bà đỡ để phụ trách nhiều nhiệm vụ khác nhau thì hầu hết người dân sẽ được phân chia rõ thành 2 tầng lớp giàu và nghèo. Trong đó cách phân biệt sẽ là dựa trên các đồ vật mà họ mang trên người như là ngà voi, chiêng, sừng tê giác, trống, ché,.. Sở dĩ có sự giàu nghèo này chủ yếu dựa trên sức lao động nhiều ít của người dân chứ không có yếu tố bóc lột.
Thường thì người Chu Ru sẽ sinh sống thành các đại gia đình lớn gồm 3 – 4 thế hệ cùng sinh hoạt trong một ngôi nhà, Tất cả các thành viên trong gia đình sẽ cùng nhau sản xuất và hưởng chung sản phẩm, quy thành sản phẩm chung của gia đình. Hiện nay trong gia đình Chu Ru vẫn còn nhiều tàn dư của chế độ mẫu hệ khi mà người vợ, người cậu trong nhà vẫn sẽ chuyển quyền thừa kế cho người con gái,
Người Chu Ru hiện vẫn còn có tín ngưỡng thờ cúng các vị thần linh. Theo quan niệm của họ thì khi người dân bị bệnh tật gì sẽ đều là do thần Yang gây ra, bên cạnh việc dùng bùa chú hay cúng bái trị bệnh thì cũng sẽ nhờ các thầy cúng có kinh nghiệm đến để trị bệnh kết hợp với chế thuốc từ những loại cây rừng để chữa trị.
35. Dân tộc Lào
Dân số dân tộc Lào: 17.532 người
Dân tộc Lào là một trong số các dân tộc thiểu số hiện đang cư trú ở các tỉnh Lào Cai, Điện Biên, Sơn La. Ngoài áp dụng các kỹ thuật canh tác, làm thủy lợi để trồng lúa nước thì người dân tộc Lào còn có các nghề phụ như là làm gốm, dệt, làm đồ bạc, rèn,..
Trong văn hóa của người dân tộc Lào sẽ có một người giỏi chữ thực hiện việc ghi chép các câu truyện cổ hay dân ca để lưu truyền sang nhiều thế hệ, tránh bị mai một. Ngoài ra thì văn nghệ dân gian của người Lào cũng sẽ có chịu ảnh hưởng một phần của văn nghệ dân gian của dân tộc Thái.
Trang phục truyền thống của người dân tộc Lào với nam giới sẽ mặc áo bông nhuộm chàm có hàng cúc làm bằng gỗ hoặc vải giống như loại áo của người đàn ông dân tộc Thái. Còn trang phục của nữ giới sẽ mặc váy đen quấn cao lên trên ngực, phần gấu váy có đa dạng hoa văn sặc sỡ, phần áo sẽ bó vào thân và có hàng khuy bạc phổ biến.
36. Dân tộc Kháng
Dân số dân tộc Kháng: 16.180 người
Người Kháng, còn gọi là Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đón, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Aỏi, Xá Bung, Quảng Lâm, là dân tộc cư trú tại bắc Việt Nam và Lào.
Người Kháng nói tiếng Kháng, là ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Môn-Khmer. Tuy nhiên vị trí của nó trong nhánh Môn-Khmer chưa được xác định rõ ràng, Tiếng Kháng được cho là thuộc ngữ chi Khơ Mú hoặc ngữ chi Palaung.
Người Kháng sinh sống tại 2 tỉnh Sơn La và Lai Châu.
Người Kháng thường làm nông, rẫy và các nghề chăn nuôi, đan lát và làm thuyền độc mộc là chủ yếu. Một trong số những nét đẹp trong văn hóa của họ nằm ở tại ngôi nhà sàn. Nhà sàn người Kháng có 2 chái và 3 gian với phần mái có hình mu rùa, có 2 cửa sổ phía 2 bên và 2 cửa ra vào ở 2 đầu. Trong mỗi ngôi nhà đều sẽ có 2 gian bếp, 1 là dùng để nấu đồ ăn hàng ngày và 1 là đề sử dụng nấu các đồ cúng tế.
Việc kết hôn của dân tộc Kháng cũng hoàn toàn tự do và lễ nghi cũng không quá phức tạp. Sau quá trình chàng trai ngủ tại nhà người con gái 4 – 5 đêm để tìm hiểu thì nếu ưng nhau sẽ bắt đầu tiến hành làm lễ ăn hỏi. Sau 3 năm ở rể thì đôi vợ chồng sẽ làm lễ để ra mắt họ hàng và cuối cùng mới rước dâu.
37. Dân tộc La Chí
Dân số dân tộc La Chí: 15.126 người
Người dân tộc La Chí sinh sống ở khu vực Lào Cai, Hà Giang với phong tục trồng lúa nước, làm ruộng bậc thang và những vùng đất nương tốt sẽ dùng để trồng bông, trồng chàm. Họ thường sống trong những ngôi nhà kiểu quần thể nhà sàn, nhà trệt và nhà kho trong một không gia nhỏ tuy nhiên lại có lối kiến trúc chặt chẽ vô cùng độc đáo. Thường trong một gia đình thì sẽ có nhiều thế hệ hay các cặp vợ chồng cùng sinh sống chung với nhau.
Người La Chí sẽ thờ cúng tổ tiên vào những dịp lễ Tết và đặc biệt trong những ngày chôn cất ba mẹ thì con cái sẽ cần ghi nhớ và hàng năm đến ngày này sẽ không được gieo lúa, cho vay hay mượn vào ngày này.
Phong tục nhận ba mẹ nuôi cho trẻ sơ sinh khá phổ biến đối với người La Chí. Sau khi chào đời được 3 ngày thì nhà gia chủ sẽ đặt 1 sợi chỉ đỏ lên bát nước đầy đặt lên bàn thờ, khi có người nào đó từ bên ngoài bước vào nhà thì sẽ trở thành ba mẹ nuôi của đứa trẻ và sẽ có nhiệm vụ đặc tên cho trẻ. Nếu như đứa trẻ hay khóc nhiều chứng tỏ là tên chưa hợp người, lúc này sẽ cần bói để tìm ba mẹ nuôi thích hợp đặt tên cho bé.
Người dân tộc La Chí có cách nấu ăn bằng hơi nước tấy độc đáo. Cơm họ sẽ nấu trong chiếc chảo to, khi cơm sôi thì sẽ vớt lên và cho vào chỗ như là xôi. Cơm sẽ nấu chín bằng hơi nước nóng và không bị nát hạt. Đối với những thức ăn khác sẽ sấy khô để dùng dần hoặc làm thịt chua.
38. Dân tộc Phù Lá
Dân số dân tộc Phù Lá: 12.471 người
Người dân tộc Phù Lá sinh sống nhiều nhất ở tại tỉnh Lào Cai của nước ta, ngoài ra cũng sẽ có một số ít sống tại các vùng Hà Giang, Yên Bái. Ngoài tên gọi là Phù Lá thì dân tộc này còn được biết đến là dân tộc Xá Phó, Bồ Khô Pạ, Va Xơ Lao,… Ngành nghề thủ công của người Phù Lá cũng rất nổi tiếng với các sản phẩm đan mây, tre để làm các dụng cụ chứa đựng như là gùi. Họ sẽ dùng chúng để đem đổi lấy nhiều món hàng hóa khác để sử dụng trong đời sống.
Đời sống của người dân Phù Lá về mặt vật chất có thể sẽ còn nhiều thiếu thốn tuy nhiên đời sống tinh thần của họ là cực kỳ phong phú, thể hiện rõ nét nhất chính là những ca khúc mang đậm âm hưởng núi rừng mà dân tộc Phù Lá sở hữu. Với lối hát kể, hát đối có độ luyến láy, lên xuống cao độ ở giọng điệu thể hiện người Phù Lá sẽ truyền tải được cho nhau những truyền thông văn hóa lâu đời của dân tộc mình, về rừng, núi và những thửa ruộng bậc thang.
Trang phục dân tộc Phù Lá rất đặc sắc khi nó vừa mang trong mình nét đẹp cổ truyền nhưng cũng rất hiện đại. Với nam giới sẽ mặc loại áo xẻ ngực được may từ 6 miếng vải tạo thành. Phần cổ áo thấp, ống tay hẹp và phần cổ tay có thêu hoa văn đẹp mắt. Với nữ giới thì thường mặc áo 5 thân dài tay, phần cổ thấp và vuông, kiểu chui đầu. Váy màu chàm đen và có phần đầu và chân váy trang trí hoa văn sặc sỡ. Trên đầu quấn khăn hoặc đội một chiếc mũ thêu ghép hoa văn theo lối chữ nhất.
39. Dân tộc La Hủ
Dân số dân tộc La Hủ: 12.113 người
Ngoài tên gọi La Hủ thì dân tộc này còn được gọi bằng nhiều tên khác như Cò Xung, Xá Lá Vàng, Khù Sung, Khả Quy,.. Họ thường sống tập trung chủ yếu ở vùng Lai Châu, Thái Nguyên. Ngôn ngữ của người La Hủ thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến của hệ Hán – Tạng.
Trước kia thì người dân La Hủ sẽ sống chủ yếu nhờ làm rẫy, lái lượm và săn bắn là chính. Tuy nhiên trong giai đoạn những năm gần đây thì họ đã biết trồng lúc nước và sử dụng trâu cày làm ruộng.
Ở trong gia đình của người dân tộc La Hủ thì chỉ có người con trai trong nhà mới được thừa hưởng tài sản mà ba mẹ để lại. Về hôn nhân thì hoàn toàn tự do lựa chọn, tuy nhiên sau khi kết hôn thì chú rể sẽ cần ở nhà vợ sinh sống từ 2 – 3 năm sau đó mới được đưa vợ về nhà mình. Người phụ nữ sẽ sinh đẻ ở tại chính buồng ngủ của mình và sau 3 ngày đứa trẻ sẽ được đặt tên, nếu như trong 3 ngày này mà nhà có khách vào chơi thì người khách sẽ được đặt tên cho đứa trẻ.
Người La Hủ rất thích văn nghệ khi có đến hơn chục điệu múa khèn và các bài hát của người dân tộc La Hủ mang một nhịp điệu rất riêng và sử dụng tiếng Hà Nhì để hát.
40. Dân tộc La Ha
Dân số dân tộc La Ha: 10.157 người
Đồng bào dân tộc La Ha nằm trong danh sách 16 dân tộc ít người của nước ta. Họ sinh sống chính tại tỉnh Sơn La và lấy nghề làm rẫy, hái lượm để có nguồn thức ăn chính. Ngày nay người La Ha đã biết trồng lúa nước và nuôi thêm các loài gia súc gia cầm để cải thiện đời sống.
Việc yêu đương của người La Ha hoàn toàn tự do tuy nhiên khi cưới xin cần có sự ưng thuận từ phía ba mẹ. Để tỏ tình với cô gái thì chàng trai sẽ đi đến nhà cô gái để sử dụng những nhạc cụ như sáo, nhị và lời ca để tỏ bày trước khi nói chuyện. Nếu như sau lễ dạm hỏi mà nhà gái không trả lại trầu cho bà mối phía nhà trai đưa đến thì sẽ tổ chức lễ xin ở rể và thời gian ở rể sẽ từ 4 năm – 8 năm. Sau thời hạn này thì lễ cưới sẽ được tiền hành, lúc này cô dâu sẽ theo chồng về nhà và phải đổi họ theo chồng.
41. Dân tộc Pà Thẻn
Dân số dân tộc Pà Thẻn: 8.248 người
Người dân tộc Pà Thẻn sinh sống chủ yếu tại 2 tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang.
Người Pà Thẻn sống bằng nghề trồng lúa nước, làm nương rẫy và trồng cây chè Shan tuyết. Những người Pà Thẻn chia làm nhiều họ khác nhau và người dân tộc này cũng quy định khi cùng họ thì đã là người thân thích và không được lấy nhau.
Người dân tộc Pà Thẻn có phong tục ở rể tạm thời, với những gia đình không có con trai thì có thể lấy rể ở hẳn. Tuy con cái sinh ra mang họ ba nhưng sẽ vẫn phải thờ họ vợ.
Người dân Pà Thẻn có quan niệm là xung quanh họ luôn có các vị thần ở bên che chở, bảo vệ nên họ có thể vượt qua được nhiều khó khăn, trở ngại. Đặc biệt vị thần tối cao của người Pà Thẻn đó chính là thần Lửa. Họ thường tổ chức lễ hội nhảy lưa linh thiêng, huyền bí để cúng thần và thực hiện nghi thức nhảy qua đống than hồng. 10 thanh niên khỏe mạnh trong làng sẽ nhảy vào phần lửa than đang cháy bằng đôi chân trần, tuy nhiên lại không sợ hãi hay bị bỏng chút nào.
Chính giá trị văn hóa đặc sắc mà lễ hội này mang đến nên đến 2013 lễ hội nhảy lửa đã được công nhận là một trong số những Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia của nước ta. Trở thành điểm hấp dẫn du lịch thu hút nhiều khách tham quan trong và ngoài nước đến đây chiêm ngưỡng mối dịp lễ hội diễn ra.
42. Dân tộc Chứt
Dân số dân tộc Chứt: 7.513 người
Người dân tộc Chứt sinh sống tập trung tại tỉnh Quảng Bình, Đak Lak, Hà Tĩnh, Lâm Đồng. Ngôn ngữ mà người Chứt sử dụng có cùng hệ với tiếng Việt nguyên thủy. Trước kia họ sống chủ yếu theo lối du canh du cư và khá nhút nhát, gặp người lạ là sẽ lẩn trốn vào rừng. Thường khi ấu cũng chưa có quần áo mà chỉ che thân bằng vỏ cây sui, ngủ trong các lều tự tạo hoặc hang động. Đến hiện nay thì người Chứt đã sống định canh định cư và biết trồng trọt, canh tác cũng như chăn nuôi, đan lát.
Người Chứt rất tin vào các vị thần và người tối cao trong tín ngưỡng của họ chính là Thần Nông. Khi mỗi hoạt động nông nghiệp quan trọng diễn ra như xuống giống, gieo hạt,.. đều tổ chức lễ cúng bái.
Người dân tộc Chứt có món cơm Pồi rất nổi tiếng. Nó được nấu từ lúa nếp, ngô, sắn và đậu mang nấu chính sau đó cho vào cối giã nhuyễn thành bột, nhồi thật kỹ. Họ dùng ống tre hay nghè hông để bỏ bột giã nhuyễn vào, cho thêm ít nước và lấy mo chuối quấn quanh miệng. Loại cơm này thường sẽ ăn chung với các loại cá, ôc, rau rừng hay thịt thú rừng
43. Dân tộc Lự
Dân số dân tộc Lự: 6.757 người
Người Lự cư trú chủ yếu tập trung ở 2 huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu và một lượng đáng kể di cư vào tỉnh Lâm Đồng.
Người Lự đã có truyền thống làm ruộng từ rất lâu đời, họ biết cày bừa, dẫn nước vào mương, gieo mạ, cấy lúa và còn trồng thêm rất nhiều loại cây ngô, khoai, sắn, chàm, bông cạnh phía vườn nhà. Hầu như nghề dệt khá phổ biến với người Lự khi đi đến mỗi gia đình sẽ đều thấy có vài ba khung cửi ở đó.
Người Lự theo tín ngưỡng Phật giáo Nam tông có nơi thờ tự. Lễ hội lớn nhất tôn thờ các vị Phật sẽ diễn ra vào tháng 6 dương lịch hàng năm mang tên là lễ hội Songkran. Trong lễ hội các nhà sư, người dân sẽ được dự tiệc chúc mừng và thực hiện nghi lễ té nước như gửi tặng nhau lời cầu mong may mắn.
Hôn nhân của người Lự thì phía chú rể sẽ phải ở rể trong 3 năm nhà vợ trước khi ra riêng. Con cái khi sinh ra sẽ lấy họ cha. Nếu là con trai sẽ có chữ đệm là Bạ, con gái sẽ có chữ đệm là Ý. Người Lự cũng sống khá chung thủy với nhau, và theo luật lệ nếu như trai bỏ vợ, gái bỏ chồng sẽ bị phạt rất nặng
44. Dân tộc Lô Lô
Dân số dân tộc Lô Lô: 4.827 người
Đồng bào dân tộc Lô Lô sinh sống ở khu vực các tỉnh Cao Bằng và Hà Giang. Tuy là dân tộc thiểu số ít người nhưng những nét văn hóa lâu đời, giá trị truyền thống luôn được gìn giữ theo năm tháng. Thường thì người Lô Lô sẽ cư trú trong những ngôi nhà dựa lưng vào phần vách núi với cửa hướng về phía thung lũng và cánh đồng. Không gia nhà ở cũng có 3 gian như một số dân tộc khác với gian giữa để bàn thờ tổ tiên, tiếp khách và tổ chức đám cưới, đám ma. Gian bên phải là nơi mà ông bà và bố mẹ sẽ sinh sống còn gian bên trái là nơi mà con trai, con dâu hay con rể sẽ ở. Một phần gác phía trên sẽ dùng cho khách ngủ lại hoặc để các đồ thực phẩm khô trong nhà.
Trong hôn nhân thì người nam và người nữ dân tộc Lô Lô có thể tự do tìm hiểu nhau, đến khi muốn kết hôn phía nhà nam sẽ cần nhờ 4 người làm mối là 2 cặp nam nữ đến nhà gái hỏi cưới. Thường lễ vật cưới sẽ được mang đến nhà ông cậu – người quyết định các việc hôn nhân hay phân chia tài sản trong nhà chứ không trực tiếp mang đến nhà cô dâu,
Trống đồng đối với người Lô Lô giống như là một báu vật thiêng liêng mà những thế hệ trước sẽ truyền lại cho thế hệ sau, chúng không chỉ mang yếu tố tâm linh mà còn là biểu tượng của sức sống dân tộc người Lô Lô
45. Dân tộc Mảng
Dân số dân tộc Mảng: 4.650 người
Người Mảng sống đông đúc nhất tại khu vực Nậm Nhùn, Lai Châu. Ở đây người dân tộc Mảng thờ vị thần tối cao là trời và cũng rất tin tưởng vào các yếu tố tâm linh đã tạo nên nhiều tục lệ kiêng kị như là con dâu không được vào phòng ngủ của bố mẹ chồng, người chết khi mang đi chôn phải đi về phía cửa phụ chứ không được đi cửa chính,..
Đám cưới của người Mảng cũng là hoạt động mang tính cộng đồng khá cao khi tất cả người trong bản sẽ giúp nhau thực hiện và hoàn tất sẽ tổ chức liên hoan, quây quần múa xòe. Ngày chọn làm lễ cưới cần vào những lúc mùa màng thu hoạch xong, phải là ngày đẹp không phạm vào ngày mất của người thân 2 bên gia đình. Lễ vật nhà trai cần chuẩn bị sẽ gồm có bạc trắng, lợn, gà, rượu cần, gạo nếp, cá suối sấy khô và thịt sóc hoặc chuột đã được sấy khô. Những lễ vật này trong quan niệm người Mảng chính là dùng để đổi lấy con dâu nên trong khi tổ chức tại nhà gái thì ba mẹ chồng sẽ không được đến dự. Đặc biệt người dân tộc Mảng còn có tục lệ hất bùn, rượu và bôi nhọ nồi vào mặt nhau trong lễ cưới để cầu chúc may mắn
46. Dân tộc Cờ Lao
Dân số dân tộc Cờ Lao: 4.003 người
Người dân tộc Cờ Lao sinh sống tại các huyện Đồng Văn và Hoàng Su Phì thuộc tỉnh Hà Giang và họ sử dụng ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Tai-Kadai, tuy nhiên hiện nay còn rất ít người có thể nói được thứ tiếng này, hầu như đã chuyển sang sử dụng một loại ngôn ngữ là tiếng Quan Thoại. Họ đôi khi cũng sẽ dùng ngôn ngữ Bố Y hay H’Mông để thay thế.
Họ sinh sống trên những khu vực núi đá nên thường chủ yếu là sẽ làm nương cày, thổ canh là chính. Tại đây cây ngô là lương chính của người Cờ Lao. Với những người sống tại vùng núi đất thì sẽ chuyển sang sinh sống bằng trồng ruộng bậc thang, đan lát, làm đồ gỗ.
Trong tín ngưỡng người Cờ Lao thì họ tin rằng mỗi người, cây lúa, cây bắp hay các loài gia súc đều có linh hồn và cứ vào mỗi dịp gặt lúa xong sẽ tổ chức lễ cúng. Vị thần quan trọng được hầu hết toàn bản thờ cúng đó chính là Thần Đất
Với mỗi nhóm người Cờ Lao khác nhau thì tục lệ cưới xin sẽ có nhiều đổi khác. Với người Cờ Lao Xanh thì chú rể sẽ mặc một chiếc áo dài xnah, quấn khăn đỏ qua người và cô dâu về đến cổng nhà cần đạp vỡ một cái bát và một cái muôi gỗ trước nhà trước khi vào. Hiện nay cách cướp vợ, kéo vợ giống như người H’Mông vẫn diễn ra trong dân tộ Cờ Lao.
Trong gia đình người Cờ Lao nếu thiếu con trai thì chàng rể có thể sẽ phải ở nhà vợ và được thừa hưởng tài sản của ba mẹ vợ. Ở nhà sẽ có thể đặt được bàn thờ tổ tiên của mình và bàn thờ bên vợ.
47. Dân tộc Bố Y
Dân số dân tộc Bố Y: 3.232 người
Người dân tộc Bố Y hiện đang sống tập trung nhiều ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái và Tuyên Quang. Họ sử dụng ngôn ngữ thuộc chi Thái trong hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Người Bố Y sống bằng nghề làm nương rẫy, chăn nuôi gia súc gia cầm và có nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi cá. Họ sẽ ra sông tìm trứng cá và bỏ và ao hoặc ruộng nước để nuôi.
Vì sống ở khu vực núi cao có độ ẩm và lượng mưa lớn nên nhà ở bắt buộc phải sử dụng đến các vật liệu chắc chắn như là tre, gỗ. Thường các nhà ở đều sẽ nằm quây quần bên khu vực sườn đồi hay bờ suối, thung lũng có nền tôn cao.
Hôn lễ người Bố Y khá phức tạp và tốn kém nhiều chi phí. Nét độc đáo chính là chàng rể sẽ không đi đón dâu mà cô em gái của chú rể sẽ dắt ngựa để đến rước chị dâu về nhà chồng. Khi đi về nhà chồng thì cô dâu sẽ mang theo một cái kéo, một con gà mái nhỏ để đi giữa đường thả gà vào rừng
Trang phục của người Bố Y với nam giới sẽ mặc áo cánh ngắn tứ thân có cổ viền, quần lá tọa màu chàm. Còn nữ sẽ mặc áo Pư ngắn có phần ống tay rời, xiêm che bụng và ngực, váy Phin xòe có hoa văn.
48. Dân tộc Cống
Dân số dân tộc Cống: 2.729 người
Người Cống sinh sống tập trung tại Điện Biên và Lai Châu là chủ yếu. Họ sống bằng nghề làm nương rẫy, hầu hết thức ăn đều tìm kiếm trong rừng, bắt cá bằng tay hay dùng các loại bả thuốc độc làm từ lá cây rừng. Phụ nữ người Cống không biết dệt vải nên hầu hết họ sẽ trồng bông và đem đổi lấy vải hay quần áo, tuy nhiên họ lại đan lát rất giỏi.
Ngày trước theo tục lệ chỉ cho người cùng dân tộc lấy nhau nhưng về sau đã có thể cưới được người dân tộc khác. Với những người cùng dòng họ thì cần cách 7 đời mới được kết hôn với nhau. Thường thì sau lễ dạm hỏi chàng trai sẽ bắt đầu ở rể, cô gái có chồng sẽ búi tóc lên đỉnh đầu. Đến khi nào cả hai sinh được con thì mới làm đám cưới. Để tổ chức lễ thì phía nhà trai cần có bạc trắng để nộp cho nhà gái, còn nhà gái phải có của hồi môn cho cô dâu mang về nhà chồng
49. Dân tộc Ngái
Dân số dân tộc Ngái: 1.649 người
Người dân tộc Ngái sử dụng ngôn ngữ theo hệ Hán – Tạng. Họ thường sinh sống đông nhất tại các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Đồng Nai, Bình Thuận,.. Tùy thuộc vào khu vực sinh sống mà người dân tộc Ngái sẽ có thể trồng lúa, làm đồ thủ công, đánh bắt cá,..
Trong hôn nhân gia đình người Ngái khá bình đẳng với nhau, người chồng sẽ là trụ cột chính. Trước kia trong lễ cưới hỏi người Ngái sẽ trải qua 2 lần cưới là lễ thành hôn và lễ nhập phòng. Phụ nữ người Ngái khi sinh con sẽ cần kiêng cữ rất nhiều thức và sau khi sinh con đầu 60 ngày hoặc với con thứ 40 ngày mới được về nhà mẹ đẻ.
Ông cậu có vai trò khá quan trọng trong gia đình người Ngái. Đây là người sẽ giống như người cha thứ 2 của các chị em gái trong nhà, khi cháu sinh con thì cũng sẽ là người giúp đặt tên cho cháu ngoại.
50. Dân tộc Si La
Dân số dân tộc Si La: 909 người
Người Si La hiện đang sinh sống tại Lai Châu, họ sử dụng ngôn ngữ thuộc ngôn ngữ Tạng-Miến thuộc hệ Hán – Tạng. Người Si La sinh sống bằng nghề trồng ngô, trồng lúa. Người dân tộc Si La có rất nhiều dòng họ và đều có quan hệ rất khắng khít với nhau.
Trong hôn nhân của người Si La sẽ là một vợ một chồng. Tuy nhiên những con cô con cậu cách 3 đời sẽ được phép kết hôn với nhau. Họ không chấp nhận ly hôn tuy nhiên lại cho phép những người góa bụa được tái hôn. Thường thì sau lễ cưới cô dâu sẽ có thể về sống tại nhà chồng. Hoặc rể đến ở nhà vợ trong khoảng từ 1- 8 năm, tuy nhiên không ở đời. Sau khi hết thời hạn ở rể sẽ buộc tách ra ở riêng và có thể làm nhà sát bố mẹ vợ để tiện chăm sóc.
Khi mang thai thì người phụ nữ Si La sẽ cần kiêng cữ nhiều thứ, và họ sinh con trong nhà bằng hình thức đẻ ngồi. Sau khi sinh thì bố mẹ sẽ mời người già trong bản làng đến để nhờ đặt tên hộ, sau 3 ngày đặt tên sẽ thực hiện lễ cúng hồn cho trẻ. Tên của người Si La có phân biệt rõ giới tính thông qua họ đó là nam giới sẽ có đệm là Chà, nữ giới sẽ có đệm là Có.
Trang phục dân tộc người Si La khá cầu kỳ khi phần áo trước ngực sẽ may khác màu so với những vị trí khác và sẽ đính lên nhiều đồng xu nhôm, đồng xu bạc. Mỗi lứa tuổi khác nhau thì người phụ nữ Si La sẽ có các khăn đội đầu mang màu sắc khác nhau. Thường thì phụ nữ Si La có đeo bên mình một chiếc túi dây rừng có trang trí 1 sợi chỉ đỏ.
51. Dân tộc Pu Péo
Dân số dân tộc Pu Péo: 903 người
Người Pu Péo sinh sống tập trung chủ yếu tại khu vực Cao nguyên Đồng Văn, Hà Giang với nghề làm ruộng bậc thang, trồng ngô, mạch ba góc, đậu,.. Loại lương thực chính của họ thường ngày chính là bột ngô đồ chín.
Tương tự như những dân tộc anh em sinh sống tại miền núi phía Bắc nước ta thì người Pu Péo cũng có tín ngưỡng thờ đa Thần. Họ thờ nhiều thần linh như thần rừng, thần núi, thần suối, thần sông,.. Trong đó lễ hội cúng thần rừng của người Pu Péo lại có nét văn hóa đặc trưng riêng không giống với bất cứ dân tộc khác.
Người Pu Péo có rất nhiều dòng họ khác nhau và họ có một tập tục đó là khi người con trai họ này đã kết hôn với con gái họ kia thì về sau con trai họ kia sẽ không được lấy vợ là người họ này nữa. Sau khi kết hôn con dâu sẽ về nhà chồng và con cái sinh ra sẽ mang họ cha.
Hiện nay dân tộc Pu Péo là một trong số ít những dân tộc Việt còn sử dụng trống đồng trong đời sống. Họ dùng nhiều nhất là ở các ngày lễ chay với 2 trống đực và cái treo đối diện nhau, một người đứng giữa sẽ cầm củ chuối gõ vào mặt trống.
52. Dân tộc Rơ Măm
Dân số dân tộc Rơ Măm: 639 người
Người Rơ Măm cư trú tập trung chính ở tại Kon Tum thường sống bằng nghề trồng lúa nếp, làm rẫy là chính. Mỗi ngôi nhà trong làng sẽ có tầm 10 – 20 người thuộc nhiều thế hệ khác nhau cùng sinh sống. Hiện thì những cặp vợ chồng anh chị em trong nhà đã gần như độc lập về kinh tế.
Lễ cưới của người Rơ Măm sẽ gồm 2 bước là ăn hỏi và lễ cưới. Họ có nét độc đáo là sau khi cưới xong có thể bỏ nhau nhưng khi đã sống chung thì sẽ gần như không bỏ nhau nữa. Khi sinh đẻ thì người phụ nữ Rơ Măm sẽ sống trong một ngôi nhà nhỏ ngoài rừng, đến ngày sinh sẽ nhờ một bà đỡ đẻ có kinh nghiệm trong làng. Trong giai đoạn có thai đến khi đứa trẻ được 3 tuổi thì người mẹ sẽ phải kiêng ăn các món nhiều mỡ. Trước kia khi còn sinh trong nhà thì người Rơ Măm kiêng không cho người lạ vào, nếu có ai vị phạm sẽ buộc giữ lại trong nhà cho đến khi hết thời gian kiêng của đứa trẻ và tên của đứa trẻ sẽ buộc đặt theo tên của khách.
Người dân tộc Rơ Măm hiện vẫn còn dữ tập tục ăn bốc và món ưa thích thường xuất hiện trong bữa ăn hàng ngày là cơm nếp đốt trong ống tre ăn với canh và muối ớt. Nước uống sẽ lấy từ các mạch nước ngầm và đựng trong vỏ bầu khô, uống trực tiếp mà không cần đun sôi.
Ngày lễ lớn nhất của người Rơ Măm diễn ra sau khi kết thúc mùa thu hoạch rẫy, lúc này các gia đình sẽ mở lễ ăn mừng kế tiếp nhau. Sau khi lễ mừng lúa mới kết thức là thời điểm các lễ kết hôn hay lễ bỏ mã cho người đã chết sẽ diễn ra
53. Dân tộc Brâu
Dân số dân tộc Brâu: 525 người
Đồng bào dân tộc Brâu sử dụng ngôn ngữ thuộc hệ tộc Môn – Khmer. Họ quen sống theo lối du canh du cư với phương pháp đốt rừng làm rẫy để trồng lúa, ngô, khoai sắn tuy nhiên kỹ thuật trồng trọt còn kém, công cụ sản xuất còn thô sơ nên chứ có năng suất cao.
Trong phong tục của người Brâu thì lễ cúng nhà mới được xem là một dịp trọng đại, lúc này sẽ mời cả làng đến tham dự bữa tiệc chung vui.
Trang phục dân tộc Brâu khá đơn giản nhưng vẫn giữ được nét tinh tế. Với đàn ông sẽ mặc áo thân thẳng có hình vuông với các họa tiết hoa văn hình mũi tên hay hàng rào trên áo để thể hiện sự khỏe khoắn. Phụ nữ thì sẽ mặc các loại váy có hoa văn nhẹ nhàng cùng với đó là nhiều đồ trang sức bằng vàng, bạc sử dụng đeo ở chân và tay.
Hiện nay người Brâu vẫn giữ được tục cà răng như là một lễ trưởng thành và quan niệm nó giống thủ tục giúp sau này người chết có thể về với tổ tiên của mình. Thủ tục này diễn ra trong nhiều giờ đồng hồ và người ta sẽ dùng đá mài để mài nhẵn sát phần lợi cho 4 chiếc răng cửa hàm. Kết thúc họ sẽ dùng một loại vỏ cây rừng để cầm máu, sát trùng và giảm đau
Chiêng tha được biết đến là loại nhạc cụ dân tộc cổ truyền của người dân tộc Brâu. Nó có giá trị lên đến từ 30 – 50 con trâu cho một bộ. Là biểu tượng của yếu tố tinh thần, tâm linh của người Brâu trong sinh hoạt lễ hội, giống như một vật kết nối giữa thế giới con người với các vị thần linh. Ngoài ra người Brâu còn có một loại nhạc cụ được tạo nên từ 5 – 7 ống lồ ô mang tên là Krông Pút – là một nhạc cụ thường được thiếu nữ Brâu sử dụng trong đám cưới, hát điệu dân ca hay ru con.
54. Dân tộc Ơ Đu
Dân số dân tộc Ơ Đu: 428 người
Dân tộc Ơ Đu là dân tộc thiểu số ít người nhất trong 54 dân tộc của Việt Nam. Người Ơ Đu hiện đang sinh sống chủ yếu tại Tương Dương, Nghệ An. Họ sử dụng ngôn ngữ thuộc chi Khơ Mí của ngữ tộc Môn – Khmer. Trong văn hóa người Ơ Đu chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi những nền văn hóa của dân tộc Thái hoặc Khơ Mú. Họ sinh sống chính bằng nương rẫy, săn bắn và hái lượm. Các loài vật như gà, lợn thường nuôi với mục đích để cúng bái, đãi khách khứa đến nhà.
Hôn nhân của người Ơ Đu có tục lệ không kết hôn trong cùng tộc, thường sẽ kết hôn với những người dân tộc khác. Họ cũng có tục ở rể, và sau một thời gian sinh sống chàng rể có thể đưa vợ về lại nhà mình để sinh sống. Người phụ nữ Ơ Đu cũng có tục sinh ngồi, và đứa bé sẽ được tính tuổi từ ngày có tiếng sấm trong năm, lúc này sẽ tính là đầy năm và ba mẹ lúc này sẽ làm lễ đặt tên.
Người Ơ Đu có rất nhiều ngày lễ hội trong năm như ngày Tết Nguyên Đán, ngày tết cơm mới,.. Nổi bật và lớn nhất là lễ đón tiếng sấm trong năm, vào ngày này người ta sẽ mở hội tế trời và làm thịt trâu bò, lợn, gà để ăn mừng.