Phật giáo

Các vị Phật, bồ tát và thần, quỷ phổ biến trong Phật giáo

955
Quả vị Tên Xuất hiện trong kinh điển Chứng tích khảo cổ quan trọng
Phật Thích Ca Mâu Ni Được nhắc tới trong tất cả các kinh điển của Phật giáo.

Theo truyền thống Mật tông, Thích Ca Mâu Ni được gọi là Đại Nhật Như Lai (Kinh Đại Nhật).

4 thánh tích liên quan gồm:

Bodh Gaya: Nơi Đức Phật thành đạo. Đạo tràng được xây dựng lại nhiều lần bắt đầu từ thời vua Ashokha

Kushinagar: Nơi Đức Phật nhập Niết Bàn. Tại đây còn vết tích tượng Phật và cột đá ghi lại sự việc được dựng dưới thời vua Ashokha

Lumbini: Địa danh không rõ ràng và chỉ được xác định bởi cột đá được dựng dưới thời vua Ashokha

Sarnath: Nơi Phật thuyết pháp đầu tiên. Di tích còn lại là tháp Dhamekh dưới triều đại  Gupta (Thế kỷ VI)

 

Amitābha

A Di Đà

(nghĩa là ánh sáng vô lượng)

A Di Đà và cõi Tịnh Độ được đề cập đầu tiên trong Sukhāvatīvyūha Sūtra (Vô lượng thọ kinh).  Kinh điển có thể được soạn trong triều đại Qúy Sương vào khoảng thế kỷ I đến II SCN (20) . Cuốn kinh này đề cập đến tiền kiếp của A Di Đà là một tu sĩ sống ở thế giới khác có tên Dharmakāra. Ông vốn là một vị vua và được một vị Phật cổ xưa tên là Lokeśvararāja – vị Phật thứ 54 – truyền đạo.

Trong Phật giáo Tây Tạng: Liên Hoa Sinh và Panchen- blama được xem là hóa thân của Đức Phật A Di Đà

 

Bức tượng cổ xưa nhất được tìm thấy có niên đại khoảng cuối thế kỷ II, dưới sự cai trị của vương triều Qúy Sương. (21)

Văn bản muộn nhất ghi chép về A Di Đà cũng được soạn trong triều đại Qúy Sương. Do đó A Di Đà là một vị Phật được du nhập vào Phật giáo trong triều đại này.

Vương triều Qúy Sương của người Nguyệt Chi có một sự dung hòa các nền văn hóa rất mạnh mẽ. Trong tín ngưỡng thờ cúng của họ có cả các vị thần Hy Lạp, La Mã và dưới triều đại của ông vua cổ vũ Phật giáo  Kanishka, các bức tượng Phật giáo đã mang màu sắc của nghệ thuật Hy Lạp – La Mã (tượng Phật đứng), mở đầu cho văn minh Phật giáo Gandhara. Dường như có một sự tương đồng giữa tiền kiếp của A Di Đà được đề cập trong kinh điển đại thừa với chính cuộc đời của vua Kanishka. (22)

Maitreya

Di Lặc

(nghĩa là người từ bi)

Được đề cập đến đầu tiên trong Kinh Tạng (thuộc Tam Tạng). Một lần với cái tên Tissametteyya trong cuộc hỏi đáp giữa Tissametteyya và Thích Ca Mâu Ni về ái dục. Một lần khác trong bài kinh 26 về “Sư tử rống chuyển bánh xe đại pháp” như vị Phật vị lai.   Nhà nghiên cứu Phật học Richard Gombrich cho rằng đoạn kinh viết về Di Lặc bị ảnh hưởng của thuyết mạt thế hoặc đã bị viết thêm vào, vì khi Thích Ca Mâu Ni thuyết về Di Lặc thì không có bối cảnh hỏi đáp đi kèm giống như những bài kinh khác (23).

Một giả thuyết khác cho rằng Di Lặc chính là vị thầy của sư Vô Trước – người sáng lập phái Duy Thức, được gọi với tên  Maitreya-nātha (270 – 350 SCN). (25) Vô Trước là người đã được Di Lặc khải lộ về

Diệu Pháp Liên Hoa – một cuốn kinh đại thừa được sáng tác và bổ sung liên tục trong suốt từ thế kỷ ITCN đến thế kỷ II SCN, cũng nhắc tới Di Lặc nhưng với quả vị bồ tát và được dự đoán là vị Phật vị lai. Trong cuốn kinh này có đề cập không rõ ràng về sự liên quan của Di Lặc với Ajita (A dật đa). Trong Kinh Tạng cũng nhắc tới A dật đa phát nguyện sẽ trở thành Chuyển Luân thánh vương Samkha (phiên âm là “Loa”). Theo kinh Trung A hàm, Ajta và Maitreya là hai vị khác nhau và có tâm tính khác nhau. (26)

Nhiều vị vua hoặc giáo chủ mới cũng tự xưng mình là hóa thân của Di Lặc để khai tông lập phái hoặc tạo ảnh hưởng.

 

Trong các tượng thờ Gandhara, Di Lặc thường được tôn thờ ngang với Thích Ca Mâu Ni và cũng được gọi bằng danh xưng này vào khoảng thế kỷ 2.

Tại Trung Quốc, từ thế kỷ 4-6, Di Lặc thường được đồng nhất với Thích Ca Mâu Ni (24)

Ở Trung Quốc vào thế kỷ 10, Di Lặc được tạo hình theo Bố Đại hòa thượng, người tự nhận là hóa thân của Di Lặc.

Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja

Dược vương lưu ly Phật

Phật Dược sư

(vị Phật chữa bệnh khổ bằng giáo lý của mình)

Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja Sūtra (Kinh Dược Sư)  mô tả Phật Dược Sư như vị bồ tát đã thực hiện 12 ý nguyện và đắc Phật. Bộ kinh được lưu truyền không chỉ có bản tiếng Hán mà người ta còn tìm thấy bản kinh Gandhāra lưu truyền ở Bắc Ấn có niên đại thế kỷ thứ 7. Phật Dược Sư thường được mô tả cầm trên tay bình thuốc có màu ngọc lưu ly hoặc có hào quang màu ngọc lưu ly. Những bức tượng Dược Sư cổ nhất tìm thấy tại Bắc Ngụy vào thế kỷ thứ VI.

Hình ảnh Dược Sư cũng được tìm thấy phổ biến trong Phật giáo Tây Tạng, Nhật Bản và Trung Quốc.

Dīpankara

Nhiên Đăng Cổ Phật

Trong các truyền thuyết Jakkata, Nhiên Đăng Cổ Phật được nhắc đến như một vị Phật thời cổ đại, người đã hướng đạo cho tiền kiếp của  Thích Ca Mâu Ni và tiên đoán của cuộc đời của Thích Ca Mâu Ni.

Nằm trong bộ Tam Thế Phật cùng với Thích Ca Mâu Ni và Di Lặc.

Vairocana

Đại Nhật Như Lai

Mật Tông Tây Tạng tin rằng Đại Nhật Như Lai là pháp thân của Thích Ca Mâu Ni, phần sâu kín nhất, tĩnh lặng nhất và hoàn toàn vĩnh cửu. Đại Nhật Như Lai lần đầu được nhắc đến trong Kinh Brahmajala (thuộc Kinh Tạng)  trong Tam Tạng Thượng Tọa Bộ, sau đó là Kinh Đại Nhật của Kim Cương Thừa.

Đại Nhật Như Lai nằm trong Ngũ Trí Như Lai của Phật giáo Tây Tạng.

 

Amoghasiddhi

Bất Không Thành Tựu Như Lai

Amoghasiddhi nằm trong Ngũ Phật Như Lai, gắn liền với diệt tâm đố kị và có lưỡi tầm sét trong tay.

Amoghasiddhi đại diện cho phương Bắc, và mùa thu.

 

A Di Đà Như Lai Nằm trong Ngũ Phật Như Lai, đại diện cho hướng tây, mùa hè
Ratnasambhava

Bảo Sinh Như Lai

Kinh điển sớm nhất đề cập đến Bảo Sinh Như Lai là Suvarṇaprabhāsa Sūtra, và sau đó là trong các kinh của Kim Cương Thừa.

Bảo Sinh Như Lai gắn với việc tăng cường tri kiến cho người tu đạo, đại diện cho mùa xuân, và phương nam.

Akshobhya

A Súc Như Lai

Tên của A Súc Như Lai có nghĩa là “người bất động”, thường được đồng nhất với Acala.

A Súc  Như  Lai đại diện cho tâm trí phản chiếu hay nhận thức bản chất thế giới, ông là vị Phật cai quản phương Đông, mùa đông.

Bồ tát

(siêu việt)

Avalokiteś

-vara

Quán Thế Âm bồ tát

(Nghĩa là đấng quán chiếu thế gian)

Quán Tự Tại (Huyền Trang dịch)

Theo Kāraṇḍirlha Sūtra (soạn trong thế kỷ IV – V), mặt trời và mặt trăng được cho là được sinh ra từ đôi mắt của Avalokiteśvara, Shiva từ trán, Brahma từ vai, Narayana từ trái tim, Sarasvati từ răng, gió từ chân và bầu trời từ dạ dày của ngài.  Cũng trong kinh này, Om mani padme hum được nhắc đến như thần chú dẫn tới giải thoát cuối cùng. (27) Các kinh đại thừa khác cũng đều nhắc đến Quán thế âm bồ tát.

Quán thế âm bồ tát là vị bồ tát đại thừa đầu tiên được thờ trong Phật giáo Thượng tọa bộ. Ở Tích Lan, Quán Thế Âm được gọi là Natha-deva và đồng nhất với Maitreya, tuy nhiên các học giả phương Tây đã chỉ ra Natha-deva chính là Quán Thế Âm. Natha-deva có một ban thờ riêng cạnh ban thờ Phật. (28)

ở Myanmar, ngài được gọi là Lokanat hoặc lokabyuharnat, và Thái Lan thì được gọi là Lokesvara có nghĩa là chúa tể của thế gian.

 

Dựa trên nguồn văn học dân gian của Tamil và kinh điển Phật giáo, nhà nghiên cứu Phật học Nhật Bản Shu Hikosaka cho rằng đỉnh núi huyền thoại Potalaka – nơi được cho là thánh địa của Quán Thế Âm được Huyền Trang ghi lại trong bút ký của mình là một ngọn núi thiêng có thực có tên Pothigai làm ở Tamil, vốn là thánh địa của người dân Nam Ấn xưa, nơi tu hành của hiền nhân Agastya – một đạo sư được nhắc đến trong Rigveda, Ramayana và Mahabharata. Khi Ashokha xâm lược vùng Nam Ấn, một sự hòa trộn giữa hình ảnh Agastya và Phật giáo đã tạo nên hình tượng Quán Thế Âm. (29)

Hình tượng Quan Âm Nghìn mắt nghìn tay đến từ truyền thuyết Quán Thế Âm sẽ không nhập Niết Bàn cho đế khi giải thoát tất cả chúng sinh khỏi luân hồi, thế rồi từ đầu của ngài tách ra mười một phần nhưng vẫn không thể hoàn thành nhiệm vụ, nên A Di Đà đã hóa cho Quán Thế Âm mười một cái đầu và ngàn cánh tay để cứu giúp thế gian. (30)  Trong Phật giáo Tây Tạng, các nữ thần Tara được ra đời từ nước mắt của Quán Thế Âm.

Hình tượng nhiều đầu nhiều tay xuất hiện trong nhiều hình tượng thần và quỷ của Hindu giáo: Brahma và Vishnu đều được miêu tả là có nhiều đầu nhiều tay, nhưng vị nữ thần gắn liền với ý tưởng nhiều đầu nhiều tay nhất chính là Durga, nhưng chưa có bằng chứng cho thấy sự liên quan giữa Durga và Quán Thế Âm. Ở Việt Nam, hình ảnh Quán Thế Âm nghìn mắt nghìn tay được gắn với tên Quan Âm Diệu Thiện và sự tích của chùa Hương.

Vào thời Đường, Quán Thế Âm được miêu tả dưới thân nữ với y phục màu trắng.

Mahāsthā

-maprāpta

Đại Thế Chí (có nghĩa là mang đến sức mạnh)

Theo Sukhāvatīvyūha Sūtra (Vô lượng thọ kinh), Đại Thế Chí và Quán Thế Âm là hai vị thị giả theo hầu Phật A Di Đà. Ngài còn được kể là con trai của A Di Đà khi ngài ở trong kiếp hoàng đế.

Trong Kinh Amitayurdhyana, Đại Thế Chí được tượng trưng bởi mặt trăng trong khi Quán Thế Âm được đại diện bởi mặt trời. Ở Trung Hoa, cũng giống như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí được tạo hình dưới thân nữ mặc áo vàng. (31)

Kṣitigarbha

Địa Tạng (có nghĩa là Ma trận Trái Đất, hoặc Tử cung Trái Đất)

Kṣitigarbha Bodhisattva Pūrvapraṇidhāna Sūtra (Kinh Địa Tạng) là bộ kinh đầu tiên nhắc tới Địa Tạng với ý nguyện giải thoát chúng sinh khỏi địa ngục cho đến khi Di Lặc xuất thế. Kinh Địa Tạng có xuất xứ không rõ ràng và không tìm được bản tiếng Pali hay Sankrite mà chỉ còn lưu lại bản dịch sang tiếng Hán nên nhiều học giả hoài nghi rằng cuốn kinh này được viết bởi người Trung Quốc. Kinh Địa Tạng đề cao chữ hiếu và có nhắc đến câu chuyện tiền kiếp của Địa Tạng là một cô gái xả thân cứu mẹ khỏi khổ hình ở địa ngục. Câu chuyện này có nhiều tương đồng với câu chuyện về tôn giả Mục Kiền Liên, một trong mười đại đệ tử của Đức Phật.

 

Địa Tạng được mô tả là một nhà sư đầu trọc, không mặc y phục Ấn Độ giống như các vị Phật và Bồ Tát khác.

Tại Cửu Hoa Sơn (Trung Quốc), tương truyền Địa Tạng đầu thai làm hoàng tử nước Tân La, sống cùng thời với Võ Tắc Thiên. Ông có tên là Kim Kiều Giác, đi tu từ nhỏ, đến Trung Nguyên để theo học Huyền Trang, sau đó lên Cửu Hoa Sơn tu hành. Sau khi ông mất, nhục thân của ông được bảo quản trong bảo tháp. Cứ đến rằm và 30 tháng 7 (được cho là ngày sinh và ngày đắc đạo của Địa Tạng), các tín đồ lại đến Tháp Nhục Thân để cầu bái. (32)

 

Mañjuśrī

Văn thù sư lợi

Diệu Âm

(có nghĩa là vinh quang êm ái)

Văn thù sư lợi được nhắc đến đầu tiên trong ārya-mañjuśrī-mūlakalpa (Văn-thù-sư-lợi căn bản nghi quỹ), đại diện cho trí huệ soi sáng khỏi vô minh. Luận sư Tsongkhapa trong Phật giáo Tây Tạng được cho là hóa thân của Văn thù sư lợi.  Văn thù sư lợi thường được tán tụng bởi các sư thuộc Trung quán tông trước giờ họ học kinh điển.

Trong Phật giáo Tây Tạng, Văn thù sư lợi được biểu hiện với một hóa thân khác là

Yamāntaka (có nghĩa là kẻ hủy diệt của thần Yama) với khuôn mặt phẫn nộ với cặp sừng bò trên đầu, phổ biến trong trường phái Gelug (Tây Tạng). (34)

 

Ngũ Đài Sơn tại Trung Quốc được coi là thánh địa của Văn thù sư lợi, gắn với sự tích hiển thánh của ông. Sự tích được kể như sau:

Một năm nọ nơi đây có tổ chức một bữa tiệc ăn chay lớn. Một phụ nữ hành khất dắt theo hai đứa con nhỏ và một con chó đói tới ăn xin, được cho ba xuất, chưa cho là đủ, nói: “Con chó cũng nên có phần”. Hòa thượng cho thêm một xuất, người phụ nữ lại nói: “Trong bụng tôi còn một đứa bé cũng nên có phần”. Vị hòa thượng nổi giận: “Đứa bé còn chưa sinh ra cũng đòi phần ăn, thật không biết thế nào là đủ”. Người phụ nữ bèn đáp:”Chúng sinh bình đẳng, thai nhi chẳng nhẽ không phải là người?”. Nói rồi, người phụ nữ cắt tóc, bay lên trời, xuất hiện pháp tướng Bồ Tát, hai đứa con hóa thành hai đồng tử, con chó biến thành sư tử xanh. Đến nay Ngũ Đài sơn còn có Phát tháp Văn Thù, tương truyền là nơi cất giữ tóc của Văn Thù. (33)

Samantabhadra

Phổ Hiền (những giá trị tốt đẹp cần được phổ độ với thế gian)

 

Theo kinh Pháp Hoa, Phổ Hiền ở phía đông cõi Ta Bà (thế gian), nghe Thích Ca Mâu Ni giảng pháp nên đã dẫn theo 500 vị đại bồ tát đến bảo hộ cho Đức Phật.

Trong truyền thống Tây Tạng, Phổ Hiền được đồng nhất với hai vị cổ phật là Dharmakaya Samantabhadra và Vajradhara (Nhiên Đăng), tuy nhiên niềm tin này không được phổ biến.

Ở Sri Lanka, Phổ Hiền có tên là Saman có nghĩa là “mặt trời lúc bình minh”, và được tôn sùng như một trong các vị thần bảo hộ cho vùng đảo này. (35) Saman là một vị thần có xuất xứ từ một vị vua nòi giống deva ở Sri Lanka với tên đầy đủ là Maha Sumana Sama. Vị thần này cũng được mô tả giống với Phổ Hiền, ngồi trên con voi trắng.

Phổ Hiền thường được mô tả dáng hình giống nữ, cưỡi trên con voi màu trắng, đứng bên cạnh Thích Ca Mâu Ni cùng với Văn thù sư lợi.
Mahamayuri

Khổng Tước Minh vương

Mahamayuri-Vidyaraini-Sutra gọi Khổng Tước Minh Vương là “nữ hoàng của huyền thuật”, mẹ của Đức Phật trong Phật giáo Đại thừa. Tương truyền là một con công từ thời khai thiên lập địa, có sức mạnh vảo vệ các tín đồ Phật giáo. Đây là kinh Phật giáo duy nhất nhắc đến kinh Rigveda.

 

Hộ pháp Vajrapani

Bát Bộ Kim Cương

(Có nghĩa là vũ khí hoặc tia sét trong tay)

Trong những truyền thuyết Phật giáo thời kỳ đầu, Vajrapāni là một vị tiểu thần đi theo Thích Ca Mâu Ni và bảo vệ Thích Ca Mâu Ni khỏi những mối đe dọa. Điều này được ghi lại trong Tam Tạng.  Có thuyết cho rằng ông là một pháp thân của Sakra – thượng đế cõi trời Trāyastriṃśa, hoặc thần mưa trong truyền thống Gandharva. Ông tự hóa thành tám thân quỷ để bảo vệ Thích Ca Mâu Ni. (36)

 

Được thờ phổ biến trong các tu viện Tịnh Độ Tông, Phật giáo Tây Tạng và chùa Thiếu Lâm với khuôn mặt phẫn nộ.

Người ta cho rằng những hình ảnh đầu tiên của Bát Bộ  Kim Cương chính là sự du nhập người anh hùng Heracles và thần Zeus vào Phật giáo (tay cầm lưỡi tầm sét). (37)

Giống loài Garuda Xuất hiện trong cả Tam Tạng và kinh Pháp Hoa. Có xuất xứ từ Hindu giáo, được mô tả như thiên thần có cánh (phổ biến ở Trung Đông) hoặc chim kéo cỗ xe của thần mặt trời Surya,  vua của của các loài chim.
Giống loài Deva (chư thiên) Đây là giống loài không giới tính sống ở cõi giới cao nhất trong lục giới. Deva có thể sa đọa vào con đường tội ác và cũng chết (khác với quan niệm về Deva trong Hindu giáo và Trung Đông). Deva cũng chia nhiều đẳng cấp khác nhau. Họ vô hình với những người thường và chỉ có những người khai thiên nhãn mới có thể nhìn thấy. Mỗi deva đều tỏa ánh sáng riêng, có thể bay lượn trong không trung.
Giống loài Naga Có hình dạng rắn hổ mang hoặc rồng. Naga xuất hiện trong Kinh Tạng và Kinh Pháp Hoa, thường xuyên hộ Pháp và cúng dường Phật. Naga được giao trách nhiệm cai quản các vùng biển. Trong  Hindu giáo, Naga là giống loài bán thần mang đến điều thiện, thường quấn quanh Vishnu, Shiva, Ganesha.
Giống loài Yaksha

(Dạ xoa)

Trong kinh Dược Sư, Dạ Xoa là từ được sử dụng để chỉ 12 vị tướng hộ vệ cho Phật Dược Sư.

Mahamayuri-Vidyaraini-Sutra, được soạn trước thế kỷ IV có một bản liệt kê các Dạ Xoa ở khắp cõi Ấn Độ quy thuận Đức Phật.

Các tượng Dạ Xoa cổ nhất được biến đến là từ thời Đế chế Mauryan. Ban đầu, Dạ Xoa có thể là thần hộ mệnh của rừng và làng mạc, sau đó là thần cai quản mặt đất và bảo vệ sự giàu có.

Vị Dạ Xoa nổi tiếng nhất là Kubera (Sóc Thiên vương).

Giống loài Gandharva

Càn thát bà

Càn Thát Bà là giống thần thấp cấp nhất nhưng có tài năng âm nhạc, sống ở cõi trời của Śakra (Đế Thích).
Giống loài Asura (Atula) A tu la được mô tả là các vị thần hung dữ, nam thì xấu xí, nữ thì xinh đẹp, thường tranh chấp với Deva.

Trong Hindu giáo, Asura có ý nghĩa như các ác linh. Rigveda sử dụng Asura để biểu thị sức mạnh . Nguồn gốc của Asura có thể bắt nguồn từ Ahura thời tiền Bái Hỏa giáo.

Tranh Đôn Hoàng hang đá số 249 mô tả Asura có 4 tay 2 đầu, thân hình màu đỏ.
Giống loài Kinnara

Khẩn na la

(có nghĩa là “người gì?”)

Được mô tả nửa người nửa chim, hoặc nửa người nửa ngựa, là các thần giỏi ca hát và chung tình. Kinara rất phổ biến và được giữ đúng tính chất trong cả truyền thống Hindu giáo và Phật giáo.
Giống loài Mahoraga

Ma hầu la già

Địa long

 

Là tên gọi của rắn thần, vua các loại rắn, những con rắn nằm sâu dưới lòng đất đôi khi tạo ra động đất.  Được ghi lại trong kinh Lăng Nghiêm như một giống loài đần độn vô tri và bị sâu bọ rúc rỉa, nhưng muốn thoát khổ nên đã thực hành Phật pháp.
Phạm Thiên (Brahma) Được du nhập từ Hindu giáo
Đế Thích

(Indra)

Được du nhập từ  Hindu giáo
Anathapindika

Cấp Cô Độc

Đức Ông

Một trong số các đệ tử tại gia của Thích Ca Mâu Ni, người đã hào phóng cấp chỗ ở và cúng dường cho tăng đoàn cũng như bố thí cho người vô gia cư. Ông được nhắc đến trong Tam Tạng.
Vương Yama

Diêm La Vương

Diêm Vương xuất hiện trong Phật giáo đại thừa, đặc biệt là trong Kim Cương Thừa với hình hài vị thần phẫn nộ, chuyên phán xét người chết và cai trị Narakas (Địa ngục). Ở Trung Quốc, Diêm Vương được thờ phổ biến và đồng hóa với các vua địa ngục có sẵn trong niềm tin của người Hán.

Trong Tam Tạng của Thượng Tọa bộ, Đức Phật thuyết rằng một người sau khi chết sẽ đến thế giới của Diêm vương và nhận sự phán xử dựa trên các hành vi của mình khi còn sống.

Trong tín ngưỡng Hindu giáo, Yama là con trai của thần mặt trời Surya, và trở thành vua địa ngục vì ông là người phàm đầu tiên chết.

Tại Á Đông, người ta tin rằng có Thập Điện Diêm La cai quản 10 địa ngục, và thường bố trí thành hai gian hoặc được vẽ tranh.

Acala

Bất Động

Trong Kim Cương Thừa, được coi là hóa thân  phẫn nộ của Đại Nhật Như Lai để đánh bại các yêu ma.

Xuất xứ ban đầu có thể là một vị thần được truyền thống đại thừa nhắc đến với cái tên Acalanātha, có nghĩa là “người bảo hộ bất động”. Học giả Phật giáo Miyeko Murase cho rằng Acala chính là sự du nhập thần Shiva vào truyền thống Phật giáo, vì Bất Động Minh Vương cũng có chứng năng hủy diệt và tái sinh. (38)

Tuy nhiên, trong kinh Sādhanamālā, một kinh điển mật tông cho rằng Bất Động Minh Vương và người chiến thắng các ác thần như Brahma, Vishnu, Shiva và Kandarpa – những vị thần bị cho là gây ra sự tái sinh liên tục.

Trailokyavijaya

Hàng Tam Thế

Là vị vua tri thức được đề cập trong kinh Đại Nhật, đã chinh phục ba thế giới Tham – Sân  – Si, cai quản phía đông của thế giới. Ông là người đã đánh bại Maheśvara (Shiva) (39)

 

 

Kundali

Quân Gia Lợi

Đây là vị minh vương mang đến hạt giống của sự bất tử, theo kinh Đại Nhật.
Yamantaka

Đại Uy Đức Kim Cang

Một biến tướng của Yama, chuyển từ thần cai quản địa ngục sang vị thần bảo hộ sự giác ngộ.
Vajrayakṣa

Kim Cương Dạ Xoa

Theo kinh Đại Nhật, đây là hiện thân của Văn Thù Sư Lợi
Kubera

Sóc Thiên Vương

Đây vốn dĩ là một vị vua dạ xoa trong thần thoại  Hindu giáo, người cai quản phương bắc và bảo vệ thế giới, vị vua cai trị các linh hồn đen tối và tội phạm, là chủ nhân của mọi kho báu trên thế gian. Trong Phật giáo, ông được gọi là Vaisravana (Đa Văn Thiên Vương), người chế phục chúng ma ở dục giới. Nòi giống của Kubera gây nhiều tranh cãi, RigVeda cho rằng ngài là A tu la, còn trong MahaBharata lại mô tả ông thuộc hàng deva.

Kubera được nhắc đến trong Tam Tạng của Thượng tọa bộ.

 

Virūḍhaka

Nam Thiên Vương

Tên của ngài có nghĩa là tăng trưởng, và cũng được nhắc đến trong Tam Tạng của Thượng tọa bộ.
Dhṛtarāṣṭra

Đông Thiên vương

Tên của ngài có nghĩa là bảo hộ quốc gia, và cũng được nhắc đến trong Tam Tạng của Thượng tọa bộ.

 

Virūpākṣa

Tây Thiên vương

Tên của ngài có nghĩa là “phân biệt”, có năng lực thấu thị, phân rõ tà ma. Về giống loài, có thể ngài thuộc dòng A tu la vì có màu đỏ.

 

0 ( 0 bình chọn )

Văn hóa tâm linh
https://vanhoatamlinh.com
Tìm hiểu về văn hóa tâm linh của người Việt từ xưa tới nay. Phong tục tập quán, tín ngưỡng (Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Đạo Mẫu).
Ý kiến bạn đọc (0)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài cùng chuyên mục

Kết nối với chúng tôi

Có thể bạn quan tâm

Ông Thiện và ông Ác là ai?

08/08/2021 09:00 2331

Sự tích Bồ tát Phổ Hiền

10/06/2021 09:00 2239

Tiêu Diện Đại Sĩ là ai?

14/08/2021 09:00 2152

Chuyên mục

Bài viết mới
Xem thêm