Vậy tục thờ Chúa Bà Ngũ Hành có từ bao giờ, nơi thờ tự ở những đâu?
Chúa Bà Ngũ Hành là ai?
Đầu tiên, để tìm hiểu về Chúa Bà Ngũ Hành, chúng ta tìm hiểu qua về khái niệm Ngũ Hành.
Ngũ Hành là khái niệm bắt nguồn từ quan niệm triết học của người Trung Quốc cổ. Theo đó, quan niệm này chỉ ra rằng trời đất, vũ trụ được vận hành bởi 5 yếu tố: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Tức biểu trưng lần lượt cho kim loại, gỗ, nước, lửa và đất. Gọi tắt 5 yếu tố này là Ngũ Hành. Mỗi yếu tố lại có sự tương sinh tương khắc theo quy luật nhất định. Quy luật này đã được phát triển và ứng dụng rộng rãi trong rất nhiều lĩnh vực thuộc đời sống xã hội như y học, ẩm thực, thiên văn, …
Dần dần, thuyết Ngũ Hành được tín ngưỡng hóa, trở thành sự thờ phụng mang tính chất tâm linh thiêng liêng phổ biến tại rất nhiều nước Á Đông, trong đó có Việt Nam.
Với sự tiếp nhận có chọn lọc hòa quyện với những tín ngưỡng dân gian đã có trước, người Việt cổ đã đưa thuyết này vào thờ phụng với hình tượng đại diện là Chúa Bà Ngũ Hành hay 5 mẹ Ngũ Hành. Cũng từ đó, tục thờ Ngũ Hành Nương Nương được hình thành.
Với đặc điểm là một nước nông nghiệp trồng lúa nước. Vụ mùa bội thu cuộc sống ấm no hay không phụ thuộc rất nhiều vào nắng, gió, mưa sa của trời đất nên tín ngưỡng thờ Chúa Bà Ngũ Hành càng phát triển và trở nên phổ biến tại Việt Nam đặc biệt tại các tỉnh Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Các vị Chúa Bà Ngũ Hành được thờ tự bao gồm:
– Đệ Nhất Chúa Bà Kim Tinh Thần Nữ
– Đệ Nhị Chúa Bà Mộc Tinh Thần Nữ
– Đệ Tam Chúa Bà Thủy Tinh Thần Nữ
– Đệ Tứ Chúa Bà Hỏa Phong Thần Nữ
– Đệ Ngũ Chúa Bà Thổ Đức Thần Nữ
– Các sắc phong của Chúa Bà Ngũ Hành
Sắc phong của các đời vua chúa rất quan trọng. Bởi nó là minh chứng quan trọng thể hiện tính chính thống quan phương của triều đình cho phép xã dân được thờ tự Ngũ Hành Nương Nương. Đồng thời công nhận Chúa Bà là vị nữ thần đồng vị giống những bách thần khác theo quan niệm của người xưa.
Theo đó, Ngũ Hành Nương Nương đã được triều Nguyễn sắc phong và liệt vào từ điển truyền tới ngàn đời sau. Sắc phong cho Bà Ngũ Hành được tồn tại dưới hai dạng là phong chung và phong riêng tùy thuộc vào việc thờ tự tại mỗi địa phương. Bởi có những địa phương chỉ thờ tự một trong năm bà hoặc cũng có thể thờ cả năm bà. Thứ hạng cao nhất mà Chúa Bà được phong đó là thượng đẳng thần – hàng vị thần cao nhất.
Cũng theo khảo sát các tư liệu Sắc phong, bài vị, văn tế còn tồn tại đến ngày nay tại các di tích thì tên gọi chung của 5 mẹ ngũ hành thường là Ngũ Hành Thần Nữ, Ngũ Hành Nương Nương, Ngũ Hành Tiên Nương. Tại mỗi di tích, tên gọi của từng bà cũng không đồng nhất. Có khi là Kim đức thánh phi, Thủy đức thánh phi hoặc Hỏa tinh thần nữ hay Chúa Sắt thần nữ,…
Dâng lễ Chúa Bà Ngũ Hành
Chúa Bà Ngũ Hành được tôn thờ phổ biến trong nhân gian bởi người ta tin rằng các Bà có những quyền năng liên quan tới mọi ngành nghề như đất đai, củi lửa, kim khí, … có thể phù hộ và ban lộc cho ngư dân, thợ thủ công, nông dân, … giúp họ làm ăn thuận lợi, có của ăn, của để. Vì việc thờ cúng Chúa Bà Ngũ Hành trở thành một tục lệ phổ biến nên Chúa Bà được thờ tự rất nhiều tại các đền miếu, đặc biệt là ở khu vực phương Nam, Việt Nam, việc sắm lễ, cúng lễ cũng gần như tương tự nhau.
Về việc sắm lễ, giống như việc thờ các vị thần linh Tứ Phủ khác, nhân dân cũng sắm lễ, dâng hương Chúa Bà vào những ngày đầu năm đầu tháng với các thứ lễ đầy đủ, tùy tâm.
Các đền, miếu thờ Chúa Bà Ngũ Hành
Trước kia, Ngũ Hành Nương Nương thường được thờ trong những am, miếu, điện, … phổ biến nhất là các ngôi miếu lớn, nhỏ mà người dân quen gọi ngắn gọn là “miếu ngũ hành” hay “miếu bà”. Ngoài ra cũng có những tên gọi khác mà tên miếu gắn với tên địa phương, bên trong có đặt tượng thờ Chúa Bà Ngũ Hành.
Tại vùng đất phương nam, những ngôi miếu Bà xuất hiện khắp nơi. Nhiều hơn cả là tại các vùng nông thôn. Đôi khi, Chúa Bà được thờ tại miếu riêng giống như các vị thần khác thường thấy nhưng cũng có khi Chúa Bà được phối thờ trang trọng trong các am thờ nhỏ hoặc các ban thờ riêng tại các miếu thờ hay tại đình, lăng, … Chúa Bà được thờ phổ biến tại các miếu liền kề nhau trên khắp các thôn ấp đường phố. Như tại quận Gò Vấp thuộc tỉnh Gia Định cũ, nơi có rất nhiều chùa, miếu, thì chỉ một trong hai khu phố liền kề nhau, đã có tới bốn chỗ thờ Chúa Bà Ngũ Hành. Hay trong đất thổ cư, vườn tược của mình, nhiều nhà giàu cũng cung dựng ngôi miếu thờ Bà thật nhỏ đặt ngay cạnh ao nuôi cá hay chuồng gà vịt. Hay đôi khi, chúa bà cũng được cạnh ban thờ Thành Hoàng (vị thần bảo hộ cho làng xã) cùng với Thổ Địa, Tiền Hiền, Hậu Hiền, …
Lễ cúng vía bà cũng lớn như lễ cúng vía thành Hoàng vậy. Không chỉ thế, dù thuộc về tín ngưỡng dân gian chứ không thuộc tín ngưỡng “thờ Phật” nhưng Ngũ Hành Nương Nương vẫn được thờ trong chùa. Tiêu biểu là những ngôi chùa cổ như chùa Phổ Đà Quan Âm – Gò Vấp, Chùa Vạn Thọ (quận 1), Chùa Bình An (Bình Tân), … Điều này cho thấy, tục thờ Chúa Bà Ngũ Hành đã phổ biến và phát triển sâu rộng đến nhường nào trong đời sống dân cư người Việt,
Ngày lễ vía Chúa Bà Ngũ Hành
Theo đúng tục lệ thì lễ vía Bà Chúa Ngũ Hành là vào ngày 19/3 âm lịch nhưng cũng có nơi cúng lễ vào một số ngày khác, nhưng vẫn chỉ xoay quanh tháng 3 âm lịch. Bởi theo người Việt quan niệm thì “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, nên lệ này luôn được giữ.
Trước ngày kỵ của bà, bà con thường làm lễ “đắp y cho Mẹ” tức nghi thức lau chùi, sơn sửa thay áo mới cho các pho tượng Chúa Bà. Tới ngày kỵ, ngoài việc sắm lễ, dâng hương Ngũ Hành Nương Nương thì tại các miếu thờ bà còn mời người về múa bóng rỗi, hát, tế, dâng bông Chúa Bà.
Như vậy tục thờ Chúa Bà Ngũ Hành là tục thờ phổ biến trong cộng đồng người Việt đặc biệt người Việt ở phương Nam. Đó là nét đẹp tâm linh đáng trân trọng trong văn hóa tín ngưỡng thờ nữ thần, mẫu thần.
Bản văn Chúa Bà Ngũ Hành thứ 1
Kim – Mộc – Thuỷ – Hoả – Thổ
Phần hương chí tín chí thành,
Tấu văn cung thỉnh Ngũ Hành Nương Nương.
Từ xưa ở cỏi thượng thiên,
Năm Bà Tiên Nữ giáng miền Trần gian.
Đức đệ nhất Kim Tinh Thần Nữ,
Giáng cõi Trần gìn giữ báu châu,
Bạc, vàng, chì, kẽm, đồng, thau,
Tiên Bà chỉ vẽ đuôi đầu cho dân.
Đức đệ nhị Mộc Tinh Thần Nữ,
Giáng cõi trần gìn giữ xanh hoa,
Bốn mùa qua lại, lại qua,
Trăm cây đua nở, trái hoa dân dùng.
Cây gì dùng lá dùng bông,
Cây gì ăn trái ra công vẽ bày.
Đức đệ tam Thuỷ Tinh Thần Nữ,
Giáng cõi Trần gìn giữ non sông.
Tiên Bà công quả dày công,
Vẽ dân biết nước đục trong mà dùng.
Đức đệ tứ Hoả Phong Thần Nữ,
Giáng cõi trần gìn giữ cung Ly.
Tiên Bà dùng phép lạ kỳ,
Lấy tre cưa lại tức thì lửa ra,
Vẽ dân đem lữa về nhà,
Lấy cây làm củi để mà nấu ăn.
Đệ Ngũ Thổ Đức Tiên Nương,
Khâm sai giáng hạ kiếm đường vẽ dân,
Gian nang, gian khó không cần,
Làm nối, làm trách cho dân về dùng.
Nồi xong bà lại làm vung,
Lưu truyền vạn cổ mà dùng ngày nay.
Tứ dân cảm đức cao dày,
Đời đời hương khói, bốn mùa kính dâng.
Lệnh triều Thành Đế hàn ân,
Sắc phong Ngũ Vị Binh Thần đền ơn.
Một bầu trí nước non nhân,
Tháng ngày dưới thuỷ tiên non chơi bời.
Khi vui dạo khắp nơi nơi,
Khi về Trung Giới, khi lên Thiên Đình.
Năm bà hiển hách oai linh,
Bốn phương đều cũng phục đính kim chương.
Lễ thường biết đến đoạn đường,
Năm Bà dạo khắp phương dưới trời,
Nhìn xem phong cảnh nơi nơi,
Kiếm trời than dược cứu mièn trần gian.
Nhiệm mầu phép thánh ai đang,
Giúp dân Hóng Lạc ân lành dưới trên.
Dốc lóng thành kính nào quên,
Đến ngày Đoan Ngọ đáp đền chẳng sai.
Cúi nhờ Thượng Cổ cao dày,
Chứng lòng thành kính giáng nơi điện này.
Bảo hộ đệ tử gái trai,
Được nhờ đức cả, đời đời khang ninh.
Bản văn Chúa Bà Ngũ Hành số 2
Kính dâng 5 nén nhang thơm,
Tâu lên ngũ vị thượng tiên Ngũ Hành.
Ngũ hành năm vị năm phương,
Thần thông hiển hách oai linh ai tày.
Chúng con chung gối tỏ bày
Khấu đầu vọng bái Thánh Bà Tiên Phi
Bà con Thượng Đế Thiên Cung,
Sớm trưa chầu trực đền rồng vào ra
Cha phong ngũ vị Thánh Bà
Kim Tinh đệ nhất, thỉnh ngài phương Tây.
Thỉnh bà về với trần miền,
Giáng lâm trước án, hưởng thiên lễ này.
Thanh Đế Thần Nữ Đông phương
Nguyện Bà giáng hạ đền rồng chứng minh.
Hắc Đế, Thần Nũ Tiên Phi,
Giáng từ phương bắc, chứng từ đằng hương.
Xích Để Thần Nữ Nam phương,
Dâng hương vọng bái, thỉnh nghinh Bà về
Hoàng Đế, Thần Nữ Tiên Nương,
Đằng vân giáng phủ Trung Ương ngự về.
Năm Bà, Liễu liễu phương phi,
Môi son, mắt phượng, điều thì, tóc xanh.
Hình dung cốt cách ai bằng,
Hình dung, nhan sắc thoát tày trần gian.
Xuân thu đông hạ tứ thời,
Khấu đầu vọng bái 5 bà thượng tiên
Chúng con một dạ chí thành
Đèn hương, lễ vật, kính thờ nguyện xin,
Nguyện xin tật bệnh tiêu trừ,
Năm xung, tháng hạn tống đưa ra ngoài.
Văn thỉnh 5 bà Ngũ Hành
Thỉnh mời Ngũ Vị Tiên Nương
Cõi mây năm gió, năm phương Bà về.
Hay là dạo khắp trần gian,
cầm hoa, hái quả, đem về hiến dâng.
Hay chơi quán Sở, lâu Tần,
Cũng xin giá võ, đằng vân ngự về.
Kính Bà cây Động đỏ hồng,
Lầu váng, núi bạc, chầu bông sẵn sàng.
Tình nhân thế hiệp hai hàng,
Thỉnh Bà giáng ngự về đồng chứng minh.
Tây phương thỉnh đức Kim Tinh,
Thần thông biến hoá oai linh làm đầu.
Chầu Mộc Tấn, cõi Tây Lầu,
Trên nguồn, dưới bể vọng cầu cũng thinh.
Chầu Thủy Tấn, cõi Nam Khê,
Đằng vân, giá võ, ngự về tòa chương.
Chầu Hỏa Tấn, cõi Bắc Phương,
Bệnh thời mắc, có Bà Vương Cõi Bà.
Trung Ương Chầu Thổ giữa trời,
Mở lòng nhân đức cứu người thế gian.
Năm Bà, Năm cõi, tòa vàng,
Ngũ phương, ngũ hướng, phép càng oai linh.
Hành phong, hoành võ oai linh,
Ai mà lầm lỗi trong mình khác ngay.
Biết ra cầu đảo đêm ngày,
Lâu thời bệnh nhiễm về tay Năm Bà.
Có lòng một nén hương hoa,
Không lòng lễ vật kêu mà thấu chi.
Phép Bà nương gió cỡi mây,
Trên thời hộ quốc, dưới thời an dân.
Văn chầu thánh giáng lưu ân,
Năm bà giáng phước, Thiên ân thọ trường.