Phật giáo

Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát là ai, có vai trò gì trong Phật giáo?

Quán Thế Âm Bồ tát là vị Phật hiện thân của lòng từ bi. Phật Bà Quan Âm được miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau, cả thân nam lẫn nữ giới.

2264

Quán Thế Âm là một trong những vị Bồ tát được tôn kính thờ phụng rộng rãi nhất trong Phật giáo.

Ý nghĩa hình tượng Quán Thế Âm Bồ Tát

Trong Kinh Bát Nhã Ba-La-Mật, Quán Thế Âm Bồ Tát được gọi là Quán Tự Tại Bồ Tát, ẩn tàng một triết lý sâu xa và phương thức tu tập nhiệm mầu nhờ quán chiếu mà được tự tại, giải thoát.

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật đã giải thích rõ cho Vô Tận Ý Bồ Tát về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm là do vị Bồ tát này khi nghe âm thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì tức thời tầm thanh để cứu khổ.

Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm tức thì quán sát âm thanh ấy, khiến cho họ đều được giải thoát.

Quán Thế Âm Bồ Tát là nam hay nữ?
Hình ảnh Quán Thế Âm

Phật tử khắp nơi đã quá quen với hình ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát là người phụ nữ đoan trang, xinh đẹp. Có nơi Quan Thế Âm Bồ Tát còn được gọi là Phật Bà Quan Âm. Thế nhưng, lại có ý kiến cho rằng Quan Thế Âm Bồ Tát là nam chứ không phải nữ. Vậy thực hư chuyện giới tính của Quan Thế Âm Bồ Tát là thế nào và vì sao lại có những tranh luận dị thường, tưởng như bất tôn kính như vậy?

Khi chúng ta thờ một đức Phật, một vị Bồ tát cần phải thâm hiểu ý nghĩa Pháp tướng, hình tượng, hình tướng của  đức Quan Thế Âm như thế nào không?

Quan Thế Âm Bồ tát là tượng nam hay nữ?

Phật Giáo quan niệm 10 phương chư Phật thì không hề có nữ nhân. Đức Quán Thế Âm là nam hay nữ? Chư vị Bồ Tát không phải là những nhân vật lịch sử bằng xương bằng thịt có sanh có tử, mà các ngài thị hiện ở đời dưới nhiều hình tướng: nam, nữ, già, trẻ, người, thú vật, núi sông… tùy tâm niệm của chúng sanh chiêu cảm mà ứng thân thị hiện. Như vậy, chắc chắn Đức Quán Thế Âm phải là nam.

Tại Trung Quốc, đến thế kỷ thứ mười, Quan Âm còn được giữ dưới dạng nam giới, thậm chí trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta thấy tượng Quan Âm để râu. Đến khoảng cuối thế kỷ thứ mười thì Quan Âm được vẽ mặc áo trắng, có dạng nữ nhân. Có lẽ điều này xuất phát từ sự trộn lẫn giữa Phật giáo và Lão giáo trong thời này. Một cách giải thích khác là ảnh hưởng của Mật Tông trong thời kỳ này: đó là hai yếu tố Từ bi và Trí huệ được thể hiện thành hai dạng nam nữ, mỗi vị Phật hay Bồ tát trong Mật tông đều có một “quyến thuộc” nữ nhân. Vị quyến thuộc của Quán Thế Âm được xem là vị nữ thần áo trắng Đa La và Bạch Y Quan Âm là tên dịch nghĩa của danh từ đó. Kể từ đó, Phật tử Trung Quốc khoác cho Quan Âm áo trắng và xem như là vị Bồ tát giúp phụ nữ hiếm muộn. Đức Quán Thế Âm xuất hiện dưới hình dạng phụ nữ chỉ mới được thịnh hành từ đời Đường bên Trung Hoa.

Người Tây Tạng lại hay tạc tượng đức Quán Thế Âm theo hình người nam, tượng trưng cho sức mạnh kiên cố, oai dũng để trấn áp tà ma quỷ dữ. Người Tây Tạng tu theo Mật Tông, miệng đọc thần chú, tay bắt ấn quyết để nhiếp phục thân tâm đến chỗ đắc định, phát huy trí huệ.

Đến nay, hầu như ở khắp các cơ sở thờ tự Á Đông đều quen thuộc với hình ảnh Bồ Tát dưới hình dạng là phụ nữ.

Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát

Trong Phật giáo, giới tính của Phật là điều không quá quan trọng. Các tín đồ Phật giáo thường không quan tâm nhiều đến giới tính và sự sinh sản của các vị Phật, Bồ tát mà họ thờ phụng. Nhưng Phật là Phật không có bà có ông. Chỉ vì dân gian gọi theo cảm tính thôi, danh xưng Phật bà, Phật ông không có trong danh từ chuyên môn nhà Phật. Bồ Tát Quán Thế Âm đã phát huy được trí huệ thần thông diệu dụng gọi là “Chủng Loại Câu Sanh Vô Hành Tác Ý Sinh Thân”, có thể tùy tâm niệm chúng sanh mà chiêu cảm ứng hiện dưới nhiều hình tướng, không nhất thiết phải là người hay vật, nam hay nữ, cho nên được gọi là phi tướng.

Quán Thế Âm Bồ Tát là nam hay nữ?-1
Phật Bà Quán Thế Âm ngồi đài sen cầm bình cam lộ

Hơn nữa, theo phẩm Phổ Môn thì khi ra tay cứu vớt chúng sinh, Bồ Tát thường chuyển hóa thành 32 sắc tướng. Khi thì thành thiện nam, khi thì thành tín nữ, lúc thành người hành khất khi thành bà góa phụ…

Đức Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát như chúng ta vẫn thấy dưới hình dạng ngày nay chỉ là một cách thể hiện sắc tướng được nhiều người quen thuộc và thừa nhận.

Ở các nước theo Phật giáo Bắc truyền, đa phần tôn tượng của Bồ tát Quán Thế Âm được thờ phụng dưới dạng nữ thân. Vì trong tâm thức của mọi người, ngài là người Mẹ hiền, thường che chở và gia hộ cho chúng sanh, nhất là trong những lúc nguy khốn.

Kinh Bi Hoa dạy rằng: Về thời quá khứ, ngài Quán Thế Âm là thái tử con vua Vô Tránh Niệm. Lúc bấy giờ có Đức Bảo Tạng Như Lai ra đời giáo hóa chúng sinh. Sau vua và thái tử xuất gia, vua Vô Tránh Niệm thành Phật, làm giáo chủ cõi Cực lạc, lấy hiệu A Di Đà. Thái tử công hạnh trọn đủ, cũng sanh về cõi ấy thành Bồ tát Quán Thế Âm. Ngoài việc thường trợ hoá cho Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sanh về Tây phương Cực lạc, Ngài còn phát bi nguyện cứu khổ, cứu nạn cho tất cả chúng sanh nếu họ thành tâm niệm danh hiệu của Ngài.

Theo kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, Bồ tát Quán Thế Âm có thần lực tự tại, có khả năng ứng hiện vô số thân để cứu độ chúng sanh. Ngài có thể hiện thân Phật, Duyên giác, Thanh văn, Phạm vương, Đế thích, Sa môn, Trưởng giả, Cư sỹ, Phụ nữ, Trời và Thần… để thực thi bi nguyện, làm lợi ích chúng hữu tình.

Do mong ước độ sinh mà Người hiện thân là Bồ tát. Và trong kinh Bi Hoa, đức Phật hay gọi đức Quan Thế Âm Bồ Tát là Thiện – nam – tử tốt ! Vì thế Quan Thế Âm Bồ Tát không tài nào là nữ nhân được.

Dựa vào lịch sử về tôn giáo, dân gian dật sử, Linh ứng truyện ký và những lịch sử của Trung Quốc từ sau nhà Châu vua Chiêu Vương tới cận đại và tới Việt Nam từ đầu thế kỉ thứ 3 tới cận kim thì đức Quan Thế Âm Bồ Tát đã từng hiện hóa vào những thế gia và cả bần gia để ứng cơ hóa độ chúng sinh.

Nhờ sự tướng của thế đạo để chỉ hướng dân gian quay về chính đạo và loại bỏ cái xấu ra khỏi cơ thể. Giống Quan Âm Diệu Thiện về đời vua Vương Trang. Quán âm cầm giỏ cá thời vua Tôn Huyền nhà Đường, Quán Âm Thị kính thời nhà Minh, Quán Âm linh thiêng thời nhà Nguyễn,…

Như vậy, không nhất thiết Ngài chỉ thị hiện nữ thân mà là vô số thân. Nhưng do niềm tịnh tín của các dân tộc vùng Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng thì hình ảnh người Mẹ hiền, thương chúng sanh như con đỏ, thường che chở, gia hộ và tưới mát những tâm hồn khổ đau của Ngài, rất được quần chúng nhân dân ngưỡng mộ và tôn thờ.

Vì vậy, tượng Ngài được thờ phụng khắp nơi đa phần là thân nữ. Tuy nhiên, một vài ngôi chùa ở miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc, tôn tượng của Ngài được thờ phụng là thân nam.

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là người có thể dùng “Phật nhãn” của mình để lắng nghe và thấu hiểu mọi sự ai oán, đau khổ của chúng sinh để mà ra tay cứu khổ cứu nạn.

Khi có việc gì đau khổ, người ta thường kêu nơi Phật Quán Âm.

Oan ức, thiệt thòi người ta cũng đến trước Phật Quán Âm

Vợ chồng muộn con thường được khuyên nên đến cầu nơi tượng Đức Phật Quán Âm.

Bồ tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát đã thân chứng và thể nhập Pháp thân. Khi đã an trụ trong Pháp thân cố nhiên siêu việt danh sắc, nam nữ, sanh diệt… vì thực tướng vốn là vô tướng. Do đó, không thể đặt vấn đề “nam hay nữ” đối với những vị đã thể nhập Pháp thân.

Theo Kinh A Di Đà nói: Người sanh về cõi cực lạc tuy chưa chứng quả Thánh, vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Kinh A Hàm nói người nữ có 5 chướng không thể thành Phật…..Thế mà Bồ Tát Quan Thế Âm lại hiện thân người Nư ư?

Về phương diện Ứng hoá thân, thì như đã trình bày, tuỳ theo hoàn cảnh, điều kiện và chủng loại chúng sanh để Bồ tát thị hiện thân tương ứng mà cứu độ.

Thế sự xuất hiện người nữ với mục đích chuyển đổi tâm tà ác và hạn chế các xa hoa trụy lạc, đó là mục đích tùy duyên hóa độ của Quan Thế Âm Bồ Tát, và cũng từ đó mà tượng, ảnh của Người trở thành diện mạo nữ trong một vài nước châu Á. Tuy nhiên, điều căn bản là con người cần hiểu rằng, đó là hình ảnh thị hiện, không nên chấp là Phật Thân của Người.

Danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát trong dân gian ai cũng đều biết tới, Ngài luôn xuất hiện ở những nơi có con người sống cơ cực và khổ đau để giúp đỡ. Ngài đi khắp thế gian để giáo hóa chúng sanh, đưa con người hướng Phật, luôn yêu thương tất cả nhân loại, không phân biệt là ai, không oán thù hay để tâm với những người đã sỉ nhục hay đối xử bất kính với mình. Vì thế, Quan Thế Âm Bồ Tát được xem là người mẹ của thiên hạ, luôn bao che và giúp đỡ các con nhân gian của mình vượt qua những trở ngại trong cuộc sống để thành người tốt và có ích.

Quán Thế Âm là một trong những vị Bồ tát được tôn kính thờ phụng rộng rãi nhất trong Phật giáo.

Ý nghĩa hình tượng Quán Thế Âm Bồ Tát

Trong Kinh Bát Nhã Ba-La-Mật, Quán Thế Âm Bồ Tát được gọi là Quán Tự Tại Bồ Tát, ẩn tàng một triết lý sâu xa và phương thức tu tập nhiệm mầu nhờ quán chiếu mà được tự tại, giải thoát.

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật đã giải thích rõ cho Vô Tận Ý Bồ Tát về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm là do vị Bồ tát này khi nghe âm thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì tức thời tầm thanh để cứu khổ.

Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm tức thì quán sát âm thanh ấy, khiến cho họ đều được giải thoát.

Quán Thế Âm Bồ Tát là nam hay nữ?
Hình ảnh Quán Thế Âm

Phật tử khắp nơi đã quá quen với hình ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát là người phụ nữ đoan trang, xinh đẹp. Có nơi Quan Thế Âm Bồ Tát còn được gọi là Phật Bà Quan Âm. Thế nhưng, lại có ý kiến cho rằng Quan Thế Âm Bồ Tát là nam chứ không phải nữ. Vậy thực hư chuyện giới tính của Quan Thế Âm Bồ Tát là thế nào và vì sao lại có những tranh luận dị thường, tưởng như bất tôn kính như vậy?

Khi chúng ta thờ một đức Phật, một vị Bồ tát cần phải thâm hiểu ý nghĩa Pháp tướng, hình tượng, hình tướng của  đức Quan Thế Âm như thế nào không?

Quan Thế Âm Bồ tát là tượng nam hay nữ?

Phật Giáo quan niệm 10 phương chư Phật thì không hề có nữ nhân. Đức Quán Thế Âm là nam hay nữ? Chư vị Bồ Tát không phải là những nhân vật lịch sử bằng xương bằng thịt có sanh có tử, mà các ngài thị hiện ở đời dưới nhiều hình tướng: nam, nữ, già, trẻ, người, thú vật, núi sông… tùy tâm niệm của chúng sanh chiêu cảm mà ứng thân thị hiện. Như vậy, chắc chắn Đức Quán Thế Âm phải là nam.

Tại Trung Quốc, đến thế kỷ thứ mười, Quan Âm còn được giữ dưới dạng nam giới, thậm chí trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta thấy tượng Quan Âm để râu. Đến khoảng cuối thế kỷ thứ mười thì Quan Âm được vẽ mặc áo trắng, có dạng nữ nhân. Có lẽ điều này xuất phát từ sự trộn lẫn giữa Phật giáo và Lão giáo trong thời này. Một cách giải thích khác là ảnh hưởng của Mật Tông trong thời kỳ này: đó là hai yếu tố Từ bi và Trí huệ được thể hiện thành hai dạng nam nữ, mỗi vị Phật hay Bồ tát trong Mật tông đều có một “quyến thuộc” nữ nhân. Vị quyến thuộc của Quán Thế Âm được xem là vị nữ thần áo trắng Đa La và Bạch Y Quan Âm là tên dịch nghĩa của danh từ đó. Kể từ đó, Phật tử Trung Quốc khoác cho Quan Âm áo trắng và xem như là vị Bồ tát giúp phụ nữ hiếm muộn. Đức Quán Thế Âm xuất hiện dưới hình dạng phụ nữ chỉ mới được thịnh hành từ đời Đường bên Trung Hoa.

Người Tây Tạng lại hay tạc tượng đức Quán Thế Âm theo hình người nam, tượng trưng cho sức mạnh kiên cố, oai dũng để trấn áp tà ma quỷ dữ. Người Tây Tạng tu theo Mật Tông, miệng đọc thần chú, tay bắt ấn quyết để nhiếp phục thân tâm đến chỗ đắc định, phát huy trí huệ.

Đến nay, hầu như ở khắp các cơ sở thờ tự Á Đông đều quen thuộc với hình ảnh Bồ Tát dưới hình dạng là phụ nữ.

Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát

Trong Phật giáo, giới tính của Phật là điều không quá quan trọng. Các tín đồ Phật giáo thường không quan tâm nhiều đến giới tính và sự sinh sản của các vị Phật, Bồ tát mà họ thờ phụng. Nhưng Phật là Phật không có bà có ông. Chỉ vì dân gian gọi theo cảm tính thôi, danh xưng Phật bà, Phật ông không có trong danh từ chuyên môn nhà Phật. Bồ Tát Quán Thế Âm đã phát huy được trí huệ thần thông diệu dụng gọi là “Chủng Loại Câu Sanh Vô Hành Tác Ý Sinh Thân”, có thể tùy tâm niệm chúng sanh mà chiêu cảm ứng hiện dưới nhiều hình tướng, không nhất thiết phải là người hay vật, nam hay nữ, cho nên được gọi là phi tướng.

Quán Thế Âm Bồ Tát là nam hay nữ?-1
Phật Bà Quán Thế Âm ngồi đài sen cầm bình cam lộ

Hơn nữa, theo phẩm Phổ Môn thì khi ra tay cứu vớt chúng sinh, Bồ Tát thường chuyển hóa thành 32 sắc tướng. Khi thì thành thiện nam, khi thì thành tín nữ, lúc thành người hành khất khi thành bà góa phụ…

Đức Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát như chúng ta vẫn thấy dưới hình dạng ngày nay chỉ là một cách thể hiện sắc tướng được nhiều người quen thuộc và thừa nhận.

Ở các nước theo Phật giáo Bắc truyền, đa phần tôn tượng của Bồ tát Quán Thế Âm được thờ phụng dưới dạng nữ thân. Vì trong tâm thức của mọi người, ngài là người Mẹ hiền, thường che chở và gia hộ cho chúng sanh, nhất là trong những lúc nguy khốn.

Kinh Bi Hoa dạy rằng: Về thời quá khứ, ngài Quán Thế Âm là thái tử con vua Vô Tránh Niệm. Lúc bấy giờ có Đức Bảo Tạng Như Lai ra đời giáo hóa chúng sinh. Sau vua và thái tử xuất gia, vua Vô Tránh Niệm thành Phật, làm giáo chủ cõi Cực lạc, lấy hiệu A Di Đà. Thái tử công hạnh trọn đủ, cũng sanh về cõi ấy thành Bồ tát Quán Thế Âm. Ngoài việc thường trợ hoá cho Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sanh về Tây phương Cực lạc, Ngài còn phát bi nguyện cứu khổ, cứu nạn cho tất cả chúng sanh nếu họ thành tâm niệm danh hiệu của Ngài.

Theo kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, Bồ tát Quán Thế Âm có thần lực tự tại, có khả năng ứng hiện vô số thân để cứu độ chúng sanh. Ngài có thể hiện thân Phật, Duyên giác, Thanh văn, Phạm vương, Đế thích, Sa môn, Trưởng giả, Cư sỹ, Phụ nữ, Trời và Thần… để thực thi bi nguyện, làm lợi ích chúng hữu tình.

Do mong ước độ sinh mà Người hiện thân là Bồ tát. Và trong kinh Bi Hoa, đức Phật hay gọi đức Quan Thế Âm Bồ Tát là Thiện – nam – tử tốt ! Vì thế Quan Thế Âm Bồ Tát không tài nào là nữ nhân được.

Dựa vào lịch sử về tôn giáo, dân gian dật sử, Linh ứng truyện ký và những lịch sử của Trung Quốc từ sau nhà Châu vua Chiêu Vương tới cận đại và tới Việt Nam từ đầu thế kỉ thứ 3 tới cận kim thì đức Quan Thế Âm Bồ Tát đã từng hiện hóa vào những thế gia và cả bần gia để ứng cơ hóa độ chúng sinh.

Nhờ sự tướng của thế đạo để chỉ hướng dân gian quay về chính đạo và loại bỏ cái xấu ra khỏi cơ thể. Giống Quan Âm Diệu Thiện về đời vua Vương Trang. Quán âm cầm giỏ cá thời vua Tôn Huyền nhà Đường, Quán Âm Thị kính thời nhà Minh, Quán Âm linh thiêng thời nhà Nguyễn,…

Như vậy, không nhất thiết Ngài chỉ thị hiện nữ thân mà là vô số thân. Nhưng do niềm tịnh tín của các dân tộc vùng Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng thì hình ảnh người Mẹ hiền, thương chúng sanh như con đỏ, thường che chở, gia hộ và tưới mát những tâm hồn khổ đau của Ngài, rất được quần chúng nhân dân ngưỡng mộ và tôn thờ.

Vì vậy, tượng Ngài được thờ phụng khắp nơi đa phần là thân nữ. Tuy nhiên, một vài ngôi chùa ở miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc, tôn tượng của Ngài được thờ phụng là thân nam.

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là người có thể dùng “Phật nhãn” của mình để lắng nghe và thấu hiểu mọi sự ai oán, đau khổ của chúng sinh để mà ra tay cứu khổ cứu nạn.

Khi có việc gì đau khổ, người ta thường kêu nơi Phật Quán Âm.

Oan ức, thiệt thòi người ta cũng đến trước Phật Quán Âm

Vợ chồng muộn con thường được khuyên nên đến cầu nơi tượng Đức Phật Quán Âm.

Bồ tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát đã thân chứng và thể nhập Pháp thân. Khi đã an trụ trong Pháp thân cố nhiên siêu việt danh sắc, nam nữ, sanh diệt… vì thực tướng vốn là vô tướng. Do đó, không thể đặt vấn đề “nam hay nữ” đối với những vị đã thể nhập Pháp thân.

Theo Kinh A Di Đà nói: Người sanh về cõi cực lạc tuy chưa chứng quả Thánh, vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Kinh A Hàm nói người nữ có 5 chướng không thể thành Phật…..Thế mà Bồ Tát Quan Thế Âm lại hiện thân người Nư ư?

Về phương diện Ứng hoá thân, thì như đã trình bày, tuỳ theo hoàn cảnh, điều kiện và chủng loại chúng sanh để Bồ tát thị hiện thân tương ứng mà cứu độ.

Thế sự xuất hiện người nữ với mục đích chuyển đổi tâm tà ác và hạn chế các xa hoa trụy lạc, đó là mục đích tùy duyên hóa độ của Quan Thế Âm Bồ Tát, và cũng từ đó mà tượng, ảnh của Người trở thành diện mạo nữ trong một vài nước châu Á. Tuy nhiên, điều căn bản là con người cần hiểu rằng, đó là hình ảnh thị hiện, không nên chấp là Phật Thân của Người.

Danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát trong dân gian ai cũng đều biết tới, Ngài luôn xuất hiện ở những nơi có con người sống cơ cực và khổ đau để giúp đỡ. Ngài đi khắp thế gian để giáo hóa chúng sanh, đưa con người hướng Phật, luôn yêu thương tất cả nhân loại, không phân biệt là ai, không oán thù hay để tâm với những người đã sỉ nhục hay đối xử bất kính với mình. Vì thế, Quan Thế Âm Bồ Tát được xem là người mẹ của thiên hạ, luôn bao che và giúp đỡ các con nhân gian của mình vượt qua những trở ngại trong cuộc sống để thành người tốt và có ích.

Phật giáo

Tên gọi Quán Thế Âm Bồ Tát có ý nghĩa gì ?

Đức Phật Thích ca Mâu ni lúc nói kinh Bi Hoa đã dạy là: Trong quá khứ đã từ rất lâu, đức Quan Thế Âm là thái tử con của vua Vô Tránh Niệm.

1660

Đức Phật Thích ca Mâu ni lúc nói kinh Bi Hoa đã dạy là: Trong quá khứ đã từ rất lâu, đức Quan Thế Âm là thái tử con của vua Vô Tránh Niệm.

Lúc đó có đức Phật danh là Bảo Tạng Như Lai nhận thức được đạo lý tối cao, Vua và Thái tử phát tâm Bồ đề to lớn, nguyện tu những hạnh Bồ tát, muốn thành Phật quả để giáo huấn và phổ độ chúng sinh.

Bắt đầu Vua và Thái Tử là những thí chủ thành kính thờ cúng quần áo, trái cây, thuốc, mền – mùng và những món cần sử dụng lên đức Bảo Tạng Như Lai và chúng tăng ba tháng liền. Nhờ vào sự chân thành, tinh tấn không ngừng, vua Vô Tránh Niệm được chứng nhận thành Phật và phát bốn mươi tám lời thề nguyện to lớn để tế độ tất cả chúng sinh, Hiệu của Ngài là A-di-Đà. Thái tử cũng công hạnh tròn đầy và viên mãn nên cũng về cõi Cực Lạc thành bậc đại Bồ Tát hiệu là Quan Thế Âm cùng với Phật A Di Đà đi dẫn dắt chúng sinh về cõi Cực lạc.

Ý nghĩa tên gọi Quán Thế Âm Bồ Tát

– Quán là quan sát, tìm hiểu và biết rõ ràng về đối tượng.

– Thế là cuộc đời, cuộc sống dân gian.

– Âm là tiếng cầu cứu, tiếng thỉnh cầu phát ra từ những nơi khổ đau.

– Bồ Tát là độ thoát cho loài hữu tình, giải cứu, hướng đạo cho chúng sanh, giúp họ đủ nghị lực vượt qua những cơ cực trong cuộc đời.

Tên gọi Quán Thế Âm Bồ Tát có ý nghĩa gì ?
Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay

Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đạt được diệu quả Nhĩ căn viên thông vì thế quan sát xét và cảm nhận và thấy được những tiếng kêu than tột cùng trong cõi nhân gian và xuât hiện lập tức ở chỗ đó để giải cứu họ vượt qua những kiếp nạn đó. Vì công hạnh cứu độ tự tại mầu nhiệm đó, vì thế trong kinh điển còn gọi là Quán tự tại Bồ tát.

Theo tiếng Phạn Avalokitesvara Quan Thế Âm Bồ Tát tức là Người luôn nghe tiếng kêu tha thiết từ tâm khảm chúng sinh trong trần gian mà tới cứu khổ. Mang lòng từ bi, nhân ái, vị tha và thánh thiện không phân biệt bất kỳ ai, nghĩa là người yêu thương tất cả chúng sanh trong thiên hạ cũng giống như  hình ảnh của người mẹ luôn bao che và giúp đỡ cho các con của mình vì thế người được gọi là từ mẫu Quan Thế Âm Bồ Tát.

Lễ vía Quan Thế Âm Bồ Tát

Mỗi năm phật tử khắp mọi nơi trên thế giới hay làm lễ vía Quan Thế Âm Bồ Tát thật trang trọng vào ba ngày: 19 tháng 2, 19 tháng 6 và 19 tháng 9 theo âm lịch.

– Ngày 19 tháng 2 là ngày Quán Thế Âm Đảng Sanh.

– Ngày 19 tháng 6 là ngày Quán Thế Âm thành đạo.

– Ngày 19 tháng 9 là ngày Quán Thế Âm xuất gia.

Đức Phật Thích ca Mâu ni lúc nói kinh Bi Hoa đã dạy là: Trong quá khứ đã từ rất lâu, đức Quan Thế Âm là thái tử con của vua Vô Tránh Niệm.

Lúc đó có đức Phật danh là Bảo Tạng Như Lai nhận thức được đạo lý tối cao, Vua và Thái tử phát tâm Bồ đề to lớn, nguyện tu những hạnh Bồ tát, muốn thành Phật quả để giáo huấn và phổ độ chúng sinh.

Bắt đầu Vua và Thái Tử là những thí chủ thành kính thờ cúng quần áo, trái cây, thuốc, mền – mùng và những món cần sử dụng lên đức Bảo Tạng Như Lai và chúng tăng ba tháng liền. Nhờ vào sự chân thành, tinh tấn không ngừng, vua Vô Tránh Niệm được chứng nhận thành Phật và phát bốn mươi tám lời thề nguyện to lớn để tế độ tất cả chúng sinh, Hiệu của Ngài là A-di-Đà. Thái tử cũng công hạnh tròn đầy và viên mãn nên cũng về cõi Cực Lạc thành bậc đại Bồ Tát hiệu là Quan Thế Âm cùng với Phật A Di Đà đi dẫn dắt chúng sinh về cõi Cực lạc.

Ý nghĩa tên gọi Quán Thế Âm Bồ Tát

– Quán là quan sát, tìm hiểu và biết rõ ràng về đối tượng.

– Thế là cuộc đời, cuộc sống dân gian.

– Âm là tiếng cầu cứu, tiếng thỉnh cầu phát ra từ những nơi khổ đau.

– Bồ Tát là độ thoát cho loài hữu tình, giải cứu, hướng đạo cho chúng sanh, giúp họ đủ nghị lực vượt qua những cơ cực trong cuộc đời.

Tên gọi Quán Thế Âm Bồ Tát có ý nghĩa gì ?
Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay

Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đạt được diệu quả Nhĩ căn viên thông vì thế quan sát xét và cảm nhận và thấy được những tiếng kêu than tột cùng trong cõi nhân gian và xuât hiện lập tức ở chỗ đó để giải cứu họ vượt qua những kiếp nạn đó. Vì công hạnh cứu độ tự tại mầu nhiệm đó, vì thế trong kinh điển còn gọi là Quán tự tại Bồ tát.

Theo tiếng Phạn Avalokitesvara Quan Thế Âm Bồ Tát tức là Người luôn nghe tiếng kêu tha thiết từ tâm khảm chúng sinh trong trần gian mà tới cứu khổ. Mang lòng từ bi, nhân ái, vị tha và thánh thiện không phân biệt bất kỳ ai, nghĩa là người yêu thương tất cả chúng sanh trong thiên hạ cũng giống như  hình ảnh của người mẹ luôn bao che và giúp đỡ cho các con của mình vì thế người được gọi là từ mẫu Quan Thế Âm Bồ Tát.

Lễ vía Quan Thế Âm Bồ Tát

Mỗi năm phật tử khắp mọi nơi trên thế giới hay làm lễ vía Quan Thế Âm Bồ Tát thật trang trọng vào ba ngày: 19 tháng 2, 19 tháng 6 và 19 tháng 9 theo âm lịch.

– Ngày 19 tháng 2 là ngày Quán Thế Âm Đảng Sanh.

– Ngày 19 tháng 6 là ngày Quán Thế Âm thành đạo.

– Ngày 19 tháng 9 là ngày Quán Thế Âm xuất gia.

Phật giáo

Quan Thế Âm Bồ Tát là ai?

Bồ Tát Quan Thế Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cứu khổ cứu nạn tất cả chúng sinh trong 6 nẻo luân hồi. Cho nên, Phật Tử chúng ta dù tu theo pháp môn nào cũng phải thường xuyên niệm hồng danh của Ngài.

1718

Ngài gia hộ, độ trì cho mới thoát khỏi tai nạn, khổ ách mỗi khi đến với mọi người chúng ta đều phải niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát” thì được giải thoát, tai qua nạn khỏi và sự nghiệp tu hành mới mau chóng thành tựu theo sở cầu như nguyện.

Trước tiên, cùng tìm hiểu về Bồ Tát Quan Thế Âm qua từ điển Wikipedia nhé: “Quan Thế Âm (Tiếng Phạn: अवलोकितेश्वर nghĩa là “Đấng quán chiếu âm thanh của thế gian”) là một vị Bồ tát hiện thân lòng từ bi của tất cả chư Phật. Được miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau, cả thân nam lẫn nữ giới, Quan Thế Âm là một trong những vị Bồ tát được tôn kính thờ phụng rộng rãi nhất trong Phật giáo Đại thừa, cũng như không chính thức trong Phật giáo Nguyên thủy.

Tên nguyên bản tiếng Phạn của vị Bồ tát này là Avalokiteśvara. Tên tiếng Hán Quan Thế Âm Bồ Tát (觀世音菩薩) được phiên dịch từ tên tiếng Phạn này, “Avalokiteśvara Bodhisattva”. Bồ tát này thường được mô tả dưới nhiều dạng thân nam hay nữ, và cũng có thể được biết đến với tên gọi đơn giản là Quan Âm.”

Nguồn gốc và ý nghĩa của Phật Bà Quan Âm

Theo Kinh Bi Hoa thì ở vào đời quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng Như Lai. thời đó có vua Chuyển Luân Thanh Vương là Vô Chánh Niệm. Vua có quan đại thần là Bảo Hải, phụ thân của đức Bảo Tạng khi chưa xuất gia đối trước Đức Phật Bảo Tạng phát ra 48 đại nguyện. Do đó, Đức Bảo Tạng thụ ký cho Vua (khi đó đã là Pháp Tạng Tỳ Kheo) sau này thành Phật hiệu là A Di Đà ở vào thế giới cực lạc.

Quan Thế Âm Bồ Tát là ai?
Bức tranh tượng Phật A Di Đà ở giữa, Bồ Tát Đại Thế Chí cầm đóa sen ở bên trái và Bồ Tát Quan Âm ngồi bên phải

Vua Chuyển Luân có nhiều con. Con cả là Thái Tử Bất Tuấn cũng do ngài Bảo Hải khuyến tiến. Thái Tử cũng đi xuất gia theo cha và đối trước Đức Bảo Tạng Như Lai phát ra bảo nguyện đại bi thương xót, cứu độ tất cả các loài chúng sanh bị khổ não. vì vậy Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử thành Bồ Tát hiệu là Quan Thế Âm, còn Bảo Haỉ là tiền thân của Đức Thích Ca Mầu Ni. Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử rằng: “Vì lòng đại bi Ông muốn quán niệm cho tất cả chúng sanh được cùng về cõi an lạc (cực lạc). Vậy từ nay đặt tên cho Ông là Quan Thê Âm….

Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo Phẩm Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sở dĩ ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổn ách, nguy cấp liền nhất tâm niệm danh hiệu của bồ tát, ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.

Trong Bát Nhã Tâm Kinh, vị Bồ tát này mang tên là Quán Tự Tại dựa trên pháp môn tu tập của ngài. Khi quán chiếu thâm sâu vào chính mình, ngài nhận thấy năm uẩn không có tự tính và đều là giả tạm, ngộ ra được điều đó, ngài vượt thoát tất cả mọi khổ đau ách nạn.

Bồ tát Quán Thế Âm còn được biết đến với tên gọi Bồ tát Quán Âm, Bồ tát Từ Hàng hay Từ Hàng Đại sĩ.

Các hình tượng của Ngài

Quán Thế Âm Bồ Tát – là bồ tát trợ tuyên đắc lực của Phật A Di Đà ở phương tây, Quán Thế Âm Bồ Tát thể hiện lòng Bi, một trong hai dạng của Phật tính. Vì vậy, danh hiệu của ngài thường kèm theo từ Đại Bi, dạng kia của Phật tính là Trí tuệ, là đặc tính được Bồ Tát Đại Thế Chí thể hiện, bên tay phải của Phật A Di Đà. Trong các loại tranh tượng về Quán Thế Âm, người ta thấy có 33 dạng, khác nhau về số đầu, tay và các đặc tính. Thông thường ta thấy tượng Bồ Tát có ngàn tay ngàn mắt, có khi 11 đầu (11 đầu biểu tượng cho mười cấp của Thập địa và Phật quả) Trên đầu có khi có tượng A-di-đà, xem như đặc điểm chính. Trên tay có khi thấy Bồ Tát cầm hoa sen hồng, vì vậy nên Quán Thế Âm cũng có tên là Liên Hoa Thủ hay nhành dương liễu và một bình nước Cam Lồ:

– Hình tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay: Con số 1.000 biểu trưng cho sự viên mãn, nên tượng được tạo với đủ 1.000 mắt, 1.000 tay (gồm 40 tay lớn và 960 tay nhỏ, trong mỗi tay đều có mắt), có nơi chỉ tạo tượng với 40 tay lớn, hoặc 42 tay lớn (có 2 tay chắp, 2 tay đặt trong tư thế thiền định) mà không tạo tay nhỏ. Nghệ nhân ở các nước Phật giáo theo truyền thống Đại thừa thường tạo tượng theo mẫu thức 40 tay lớn, bởi con số 40 ứng với 25 hữu (25 quốc độ của chúng sinh trong tam giới – 25×40=1.000)

Quan Thế Âm Bồ Tát là ai?-1
Tượng Bồ Tát Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp, Bắc Ninh

– Bồ Tát Quan Thế Âm tay trái cầm bình cam lồ, tay phải cầm cành dương liễu. Nước cam lồ biểu trưng cho lòng từ bi. Nước này rưới tới đâu là chan rải tình thương tới đó, làm mát mẻ êm dịu mọi khổ đau của chúng sanh. Cành dương liễu là biểu tượng của sự nhẫn nhịn. Bởi việc tu hành cũng khó khăn như đi trong cơn bão lớn. Những cành cây cứng mạnh lại dễ gãy đổ. Cành dương liễu tuy yếu mềm nhưng dẻo dai, gió chiều nào cũng thuận theo nên khó gãy. Quan Âm Bồ tát dùng cành dương rưới nước cam lồ, biểu trưng cho lòng nhẫn nhục nhu nhuyễn. Thiếu cành dương không rưới nước cam lồ được. Cũng vậy, có lòng từ bi mà thiếu đức nhẫn nhục thì lòng từ bi đó không lâu dài, không đem đến lợi ích viên mãn cho chúng sinh. Cho nên đức nhẫn nhục, lòng từ bi luôn đi đôi với nhau, thiếu một đức thì đức kia không thể thực hiện.

Quan Thế Âm Bồ Tát là ai?-2
Tượng Bồ Tát Quan Âm tay trái cầm bình Cam Lồ, tay phải cầm cành Dương Liễu tại chùa Linh Ứng, Đà Nẵng

Chú Đại Bi

Trong kinh ngài Quan Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn, tôi có chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bịnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa.”, rồi sau đó đọc Chú Đại Bi.

Quan Thế Âm Bồ Tát là ai?-3
Chú Đại Bi

“Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng.”

Thần chú 6 chữ “Om mani padme hum” (hay còn gọi là Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn)

Câu thần chú “Om Mani Padme Hūm” là một trong những câu thần chú nổi tiếng nhất trong Phật giáo, được các Phật tử theo pháp tu niệm Phật, và đặc biệt là Phật tử tu theo Mật tông như Phật giáo Tây Tạng tụng đọc trong mọi nghi thức tu tập.

Quan Thế Âm Bồ Tát là ai?-4
Câu thần chú “Om Mani Padme Hūm”

Câu thần chú nầy được viết bằng tiếng Phạn (Devanāgarῑ) là: ॐमणिपद्मेहूँ hay: ओंमणिपद्मेहूं. Phiên âm quốc tế thành: “Om Mani Padme Hūm”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 có viết:

“Đọc tụng câu thần chú Om Mani Padme Hūm thì là rất tốt, nhưng trong khi bạn làm như thế, bạn nên nghĩ về ý nghĩa của nó, vì ý nghĩa của sáu âm là thâm sâu và rộng…Trước tiên, Om  tượng trưng cho thân, khẩu, và ý không thanh tịnh của hành giả; nó cũng tượng trưng cho thân, khẩu và ý thanh tịnh đáng tán dương của một vị Phật”

“Con đường tu được chỉ ra bởi bốn âm kế tiếp. Mani, có nghĩa là viên ngọc, tượng trưng cho những yếu tố của phương tiện, phương pháp: chủ yếu là tâm bồ đề, là đại từ, đại bi, lòng từ bi, vị tha để trở thành giác ngộ”

“Hai âm padme, có nghĩa hoa sen, tượng trưng cho trí tuệ, tuệ giác tánh Không”

“Hūm tượng trưng cho sự hợp nhất giữa phương tiện, phương pháp tu (là từ bi) và trí tuệ, tuệ giác tánh Không”

“Tu là quá trình thanh tịnh hóa. Quá trình thanh tịnh hóa phải được hoàn thành bởi sự hợp nhất không thể phân chia được của phương tiện, phương pháp tu và trí tuệ”.

“Như vậy sáu âm, Om Mani Padme Hūm, có nghĩa là trong quá trình thực hành một đường lối tu mà đó là một sự hợp nhất không thể phân chia được giữa phương tiện, phương pháp tu là lòng từ bi và trí tuệ, tuệ giác tánh Không, bạn có thể biến đổi dần dần thân, khẩu và ý không thanh tịnh của bạn thành thân, khẩu, và ý thanh tịnh đáng tán dương của một vị Phật”

Có mấy vị Quan Âm?

Trong Kinh Đại Bản Như Ý nói có 8 vị đại Quan Âm là:

1. Viên Mãn Ý, Nguyệt Minh Vương Bồ Tát.

2. Bạch Y Tự Tại.

3. Cát La Sát Nữ.

4. Tứ Diện Quán Âm.

5. Mã Đầu Minh Vương.

6. Tỳ Cầu Chi.

7. Đại Thế Chí.

8. Đà La Quan Âm (Quán Âm Chuẩn Đề).

12 lời nguyện của Quan Thế Âm Bồ Tát

– Nguyện thứ nhất: Phật Viên Thông Thánh Tự Tại, Quán Âm Như Lai rộng phát hoằng thệ nguyện.

– Nguyện thứ hai: Quyết một lòng không sợ khó, Quán Âm Như Lai thường vào Biển Đông nguyện.

– Nguyện thứ ba: Ở Ta bà, vào Địa phủ, Quán Âm Như Lai cứu với chúng sanh nguyện.

– Nguyện thứ tư: Diệt tà mà trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai dứt trừ nguy hiểm nguyện.

– Nguyện thứ năm: Tay cầm tịnh bình, tay cầm nhành dương liễu, Quán Âm Như Lai ban nước cam lồ nguyện.

– Nguyện thứ sáu: Đại Từ bi, Đại Hỷ xả, Quán Âm Như Lai oán thân bình đẳng nguyện.

– Nguyện thứ bảy: Suốt ngày đêm luôn quán sát, Quán Âm Như Lai diệt trừ đường ác nguyện.

– Nguyện thứ tám: Phổ Đà Sơn thường lễ bái, Quán Âm Như Lai gông cùm đứt rã nguyện.

– Nguyện thứ chín: Tạo pháp thuyền vào biển khổ, Quán Âm Như Lai độ tận chúng sanh nguyện.

– Nguyện thứ mười: Tiền Tràng phan, hậu Bảo cái, Quán Âm Như Lai tiếp dẫn Tây phương nguyện.

– Nguyện thứ mười một: Vô Lượng Thọ cảnh giới, Quán Âm Như Lai Di Đà thọ ký nguyện.

– Nguyện thứ mười hai: Thân trang nghiêm, tâm sáng suốt, Quán Âm Như Lai tròn đủ mười hai nguyện.

Ngài gia hộ, độ trì cho mới thoát khỏi tai nạn, khổ ách mỗi khi đến với mọi người chúng ta đều phải niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát” thì được giải thoát, tai qua nạn khỏi và sự nghiệp tu hành mới mau chóng thành tựu theo sở cầu như nguyện.

Trước tiên, cùng tìm hiểu về Bồ Tát Quan Thế Âm qua từ điển Wikipedia nhé: “Quan Thế Âm (Tiếng Phạn: अवलोकितेश्वर nghĩa là “Đấng quán chiếu âm thanh của thế gian”) là một vị Bồ tát hiện thân lòng từ bi của tất cả chư Phật. Được miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau, cả thân nam lẫn nữ giới, Quan Thế Âm là một trong những vị Bồ tát được tôn kính thờ phụng rộng rãi nhất trong Phật giáo Đại thừa, cũng như không chính thức trong Phật giáo Nguyên thủy.

Tên nguyên bản tiếng Phạn của vị Bồ tát này là Avalokiteśvara. Tên tiếng Hán Quan Thế Âm Bồ Tát (觀世音菩薩) được phiên dịch từ tên tiếng Phạn này, “Avalokiteśvara Bodhisattva”. Bồ tát này thường được mô tả dưới nhiều dạng thân nam hay nữ, và cũng có thể được biết đến với tên gọi đơn giản là Quan Âm.”

Nguồn gốc và ý nghĩa của Phật Bà Quan Âm

Theo Kinh Bi Hoa thì ở vào đời quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng Như Lai. thời đó có vua Chuyển Luân Thanh Vương là Vô Chánh Niệm. Vua có quan đại thần là Bảo Hải, phụ thân của đức Bảo Tạng khi chưa xuất gia đối trước Đức Phật Bảo Tạng phát ra 48 đại nguyện. Do đó, Đức Bảo Tạng thụ ký cho Vua (khi đó đã là Pháp Tạng Tỳ Kheo) sau này thành Phật hiệu là A Di Đà ở vào thế giới cực lạc.

Quan Thế Âm Bồ Tát là ai?
Bức tranh tượng Phật A Di Đà ở giữa, Bồ Tát Đại Thế Chí cầm đóa sen ở bên trái và Bồ Tát Quan Âm ngồi bên phải

Vua Chuyển Luân có nhiều con. Con cả là Thái Tử Bất Tuấn cũng do ngài Bảo Hải khuyến tiến. Thái Tử cũng đi xuất gia theo cha và đối trước Đức Bảo Tạng Như Lai phát ra bảo nguyện đại bi thương xót, cứu độ tất cả các loài chúng sanh bị khổ não. vì vậy Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử thành Bồ Tát hiệu là Quan Thế Âm, còn Bảo Haỉ là tiền thân của Đức Thích Ca Mầu Ni. Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử rằng: “Vì lòng đại bi Ông muốn quán niệm cho tất cả chúng sanh được cùng về cõi an lạc (cực lạc). Vậy từ nay đặt tên cho Ông là Quan Thê Âm….

Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo Phẩm Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sở dĩ ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổn ách, nguy cấp liền nhất tâm niệm danh hiệu của bồ tát, ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.

Trong Bát Nhã Tâm Kinh, vị Bồ tát này mang tên là Quán Tự Tại dựa trên pháp môn tu tập của ngài. Khi quán chiếu thâm sâu vào chính mình, ngài nhận thấy năm uẩn không có tự tính và đều là giả tạm, ngộ ra được điều đó, ngài vượt thoát tất cả mọi khổ đau ách nạn.

Bồ tát Quán Thế Âm còn được biết đến với tên gọi Bồ tát Quán Âm, Bồ tát Từ Hàng hay Từ Hàng Đại sĩ.

Các hình tượng của Ngài

Quán Thế Âm Bồ Tát – là bồ tát trợ tuyên đắc lực của Phật A Di Đà ở phương tây, Quán Thế Âm Bồ Tát thể hiện lòng Bi, một trong hai dạng của Phật tính. Vì vậy, danh hiệu của ngài thường kèm theo từ Đại Bi, dạng kia của Phật tính là Trí tuệ, là đặc tính được Bồ Tát Đại Thế Chí thể hiện, bên tay phải của Phật A Di Đà. Trong các loại tranh tượng về Quán Thế Âm, người ta thấy có 33 dạng, khác nhau về số đầu, tay và các đặc tính. Thông thường ta thấy tượng Bồ Tát có ngàn tay ngàn mắt, có khi 11 đầu (11 đầu biểu tượng cho mười cấp của Thập địa và Phật quả) Trên đầu có khi có tượng A-di-đà, xem như đặc điểm chính. Trên tay có khi thấy Bồ Tát cầm hoa sen hồng, vì vậy nên Quán Thế Âm cũng có tên là Liên Hoa Thủ hay nhành dương liễu và một bình nước Cam Lồ:

– Hình tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay: Con số 1.000 biểu trưng cho sự viên mãn, nên tượng được tạo với đủ 1.000 mắt, 1.000 tay (gồm 40 tay lớn và 960 tay nhỏ, trong mỗi tay đều có mắt), có nơi chỉ tạo tượng với 40 tay lớn, hoặc 42 tay lớn (có 2 tay chắp, 2 tay đặt trong tư thế thiền định) mà không tạo tay nhỏ. Nghệ nhân ở các nước Phật giáo theo truyền thống Đại thừa thường tạo tượng theo mẫu thức 40 tay lớn, bởi con số 40 ứng với 25 hữu (25 quốc độ của chúng sinh trong tam giới – 25×40=1.000)

Quan Thế Âm Bồ Tát là ai?-1
Tượng Bồ Tát Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp, Bắc Ninh

– Bồ Tát Quan Thế Âm tay trái cầm bình cam lồ, tay phải cầm cành dương liễu. Nước cam lồ biểu trưng cho lòng từ bi. Nước này rưới tới đâu là chan rải tình thương tới đó, làm mát mẻ êm dịu mọi khổ đau của chúng sanh. Cành dương liễu là biểu tượng của sự nhẫn nhịn. Bởi việc tu hành cũng khó khăn như đi trong cơn bão lớn. Những cành cây cứng mạnh lại dễ gãy đổ. Cành dương liễu tuy yếu mềm nhưng dẻo dai, gió chiều nào cũng thuận theo nên khó gãy. Quan Âm Bồ tát dùng cành dương rưới nước cam lồ, biểu trưng cho lòng nhẫn nhục nhu nhuyễn. Thiếu cành dương không rưới nước cam lồ được. Cũng vậy, có lòng từ bi mà thiếu đức nhẫn nhục thì lòng từ bi đó không lâu dài, không đem đến lợi ích viên mãn cho chúng sinh. Cho nên đức nhẫn nhục, lòng từ bi luôn đi đôi với nhau, thiếu một đức thì đức kia không thể thực hiện.

Quan Thế Âm Bồ Tát là ai?-2
Tượng Bồ Tát Quan Âm tay trái cầm bình Cam Lồ, tay phải cầm cành Dương Liễu tại chùa Linh Ứng, Đà Nẵng

Chú Đại Bi

Trong kinh ngài Quan Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn, tôi có chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bịnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa.”, rồi sau đó đọc Chú Đại Bi.

Quan Thế Âm Bồ Tát là ai?-3
Chú Đại Bi

“Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng.”

Thần chú 6 chữ “Om mani padme hum” (hay còn gọi là Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn)

Câu thần chú “Om Mani Padme Hūm” là một trong những câu thần chú nổi tiếng nhất trong Phật giáo, được các Phật tử theo pháp tu niệm Phật, và đặc biệt là Phật tử tu theo Mật tông như Phật giáo Tây Tạng tụng đọc trong mọi nghi thức tu tập.

Quan Thế Âm Bồ Tát là ai?-4
Câu thần chú “Om Mani Padme Hūm”

Câu thần chú nầy được viết bằng tiếng Phạn (Devanāgarῑ) là: ॐमणिपद्मेहूँ hay: ओंमणिपद्मेहूं. Phiên âm quốc tế thành: “Om Mani Padme Hūm”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 có viết:

“Đọc tụng câu thần chú Om Mani Padme Hūm thì là rất tốt, nhưng trong khi bạn làm như thế, bạn nên nghĩ về ý nghĩa của nó, vì ý nghĩa của sáu âm là thâm sâu và rộng…Trước tiên, Om  tượng trưng cho thân, khẩu, và ý không thanh tịnh của hành giả; nó cũng tượng trưng cho thân, khẩu và ý thanh tịnh đáng tán dương của một vị Phật”

“Con đường tu được chỉ ra bởi bốn âm kế tiếp. Mani, có nghĩa là viên ngọc, tượng trưng cho những yếu tố của phương tiện, phương pháp: chủ yếu là tâm bồ đề, là đại từ, đại bi, lòng từ bi, vị tha để trở thành giác ngộ”

“Hai âm padme, có nghĩa hoa sen, tượng trưng cho trí tuệ, tuệ giác tánh Không”

“Hūm tượng trưng cho sự hợp nhất giữa phương tiện, phương pháp tu (là từ bi) và trí tuệ, tuệ giác tánh Không”

“Tu là quá trình thanh tịnh hóa. Quá trình thanh tịnh hóa phải được hoàn thành bởi sự hợp nhất không thể phân chia được của phương tiện, phương pháp tu và trí tuệ”.

“Như vậy sáu âm, Om Mani Padme Hūm, có nghĩa là trong quá trình thực hành một đường lối tu mà đó là một sự hợp nhất không thể phân chia được giữa phương tiện, phương pháp tu là lòng từ bi và trí tuệ, tuệ giác tánh Không, bạn có thể biến đổi dần dần thân, khẩu và ý không thanh tịnh của bạn thành thân, khẩu, và ý thanh tịnh đáng tán dương của một vị Phật”

Có mấy vị Quan Âm?

Trong Kinh Đại Bản Như Ý nói có 8 vị đại Quan Âm là:

1. Viên Mãn Ý, Nguyệt Minh Vương Bồ Tát.

2. Bạch Y Tự Tại.

3. Cát La Sát Nữ.

4. Tứ Diện Quán Âm.

5. Mã Đầu Minh Vương.

6. Tỳ Cầu Chi.

7. Đại Thế Chí.

8. Đà La Quan Âm (Quán Âm Chuẩn Đề).

12 lời nguyện của Quan Thế Âm Bồ Tát

– Nguyện thứ nhất: Phật Viên Thông Thánh Tự Tại, Quán Âm Như Lai rộng phát hoằng thệ nguyện.

– Nguyện thứ hai: Quyết một lòng không sợ khó, Quán Âm Như Lai thường vào Biển Đông nguyện.

– Nguyện thứ ba: Ở Ta bà, vào Địa phủ, Quán Âm Như Lai cứu với chúng sanh nguyện.

– Nguyện thứ tư: Diệt tà mà trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai dứt trừ nguy hiểm nguyện.

– Nguyện thứ năm: Tay cầm tịnh bình, tay cầm nhành dương liễu, Quán Âm Như Lai ban nước cam lồ nguyện.

– Nguyện thứ sáu: Đại Từ bi, Đại Hỷ xả, Quán Âm Như Lai oán thân bình đẳng nguyện.

– Nguyện thứ bảy: Suốt ngày đêm luôn quán sát, Quán Âm Như Lai diệt trừ đường ác nguyện.

– Nguyện thứ tám: Phổ Đà Sơn thường lễ bái, Quán Âm Như Lai gông cùm đứt rã nguyện.

– Nguyện thứ chín: Tạo pháp thuyền vào biển khổ, Quán Âm Như Lai độ tận chúng sanh nguyện.

– Nguyện thứ mười: Tiền Tràng phan, hậu Bảo cái, Quán Âm Như Lai tiếp dẫn Tây phương nguyện.

– Nguyện thứ mười một: Vô Lượng Thọ cảnh giới, Quán Âm Như Lai Di Đà thọ ký nguyện.

– Nguyện thứ mười hai: Thân trang nghiêm, tâm sáng suốt, Quán Âm Như Lai tròn đủ mười hai nguyện.