Chử Đồng Tử là một nhân vật truyền thuyết, thần thoại và là một vị thánh nổi tiếng, sống ở thế kỷ thứ IV-III TCN (vào khoảng năm 300 TCN, thời Hùng Duệ Vương). Về sau, ông thường được liệt vào một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng Việt Nam.
Truyền thuyết Chử Đồng Tử và Tiên Dung
Tương truyền rằng, vào thời Hùng Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương), Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân, hoặc Chử Vi Tử tại thôn Chử Xá, xã Văn Đức (nay thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội). Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.
Thời ấy, Vua Hùng thứ 18 là Hùng Duệ Vương có cô con gái tên là Tiên Dung, đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của Tiên Dung đến thăm vùng Chử Xá. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, thấy chàng hiếu thảo, bản tính thật thà, khôi ngô cường tráng, thú vị hiếm có, tâm sinh ý yêu thích, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.
Hùng Vương nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung và Chử Đồng Tử làm chúa. Một hôm, có người bày cho cách ra ngoài buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Viên sơn, Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một tăng sĩ tên Phật Quang. Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.
Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng, văn võ bá quan lẫn tiên đồng ngọc nữ đều sẵn sàng để hầu hạ. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.
Nghe tin, Hùng Vương cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng quân ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung – Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.
Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là Hà Thị.
Đền thờ Chử Đồng Tử ở đâu?
Đền thờ Chử Đồng Tử thờ Đức thánh Chử Đồng Tử có ở:
– Đình Chử Đồng Tử (Chử Xá, Văn Đức, Gia Lâm, Thành phố Hà Nội).
– Đền Hóa, nơi Chử Đồng Tử và Nhị vị phu nhân (Tiên Dung Công chúa và Tây Sa Công chúa) hóa về trời, được xem là đền thờ chính, thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
– Đền Đa Hòa thuộc thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Ở cả 2 đền Dạ Trạch và Đa Hòa, nằm ở huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, cách nhau không xa. Hai đền này đều đã được xếp hạng di tích văn hóa cấp Quốc gia.
Ngoài ra còn một số đền Làng thờ như: Đình Phương Trù ở thôn Phương Trù (xã Tứ Dân); Đền Ngự Dội ở làng Màn Trầu ( huyện Đông Yên) nay là thôn Toàn Thắng (xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên); Đền làng Quan Xuyên, xã Thành Công huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Đền Đa Hòa thờ Chử Đồng Tử
Kiến trúc khu Đền Đa Hòa (nơi Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung gặp nhau) gồm 18 ngôi nhà mái ngói cong hình 18 thuyền rồng cách điệu. Đây là kiến trúc đặc biệt nhằm tái hiện hoạt cảnh đoàn thuyền của công chúa Tiên Dung đang giăng buồm du ngoạn trên bến sông.
Đền được xây dựng trên một khu đất cao, bằng phẳng, hình chữ nhật. Bia đá có nội dung nói về thời điểm trùng tu đền Đa Hòa và cuộc nhân duyên kỳ ngộ của Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Ngôi đền càng được tôn thêm vẻ đẹp nhờ sự cổ kính, rêu phong, các cây cổ thụ bốn mùa xanh tốt, khẳng định sự bất tử của đức thánh Chử Đồng Tử cũng như mối tình tuyệt mỹ của ngài.
Ngoài kiến trúc độc đáo, đền Ða Hoà còn lưu giữ nhiều di vật quý hiếm, điển hình như: 3 cỗ ngai thờ bằng gỗ. Đây được coi là những cỗ ngai cổ nhất còn tìm thấy ở nước ta hiện nay; đôi lọ Bách thọ bằng gốm có một trăm chữ thọ không chữ nào giống chữ nào…
Đền Dạ Trạch thờ Chử Đồng Tử
Đền Dạ Trạch (Đền Hóa), gắn liền với truyền thuyết Chử Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung, nằm sâu trong vùng đầm Dạ Trạch, không gian thoáng đãng.
Phía sau đền vẫn còn giữ được một ít cây cổ thụ, tạo cho đền một vẻ đẹp thâm u, huyền bí, thoát tục.
Lễ hội Chử Đồng Tử
Lễ hội Chử Đồng Tử diễn ra từ ngày 10 đến 12 tháng 2 âm lịch để ghi nhớ công ơn của Đức Thánh Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung có công chữa bệnh giúp dân. Đây là một trong 16 lễ hội lớn nhất cả nước.
Độc đáo nhất là lễ rước nước với sự tham gia của 10 con thuyền nối đuôi nhau ra sông Hồng lấy nước về lễ Thánh tại đền Đa Hòa và Dạ Trạch.
Lễ hội Chử Đồng Tử được tổ chức ở cả hai đền, có rất nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như: chọi gà, đấu vật, đu bay, bịt mắt bắt dê, cầu kiều, đập liêu…, cùng với các loại hình nghệ thuật cổ truyền như: múa rồng, múa lân, ca trù, ả đào, hát đối, hát văn, quan họ,…
Lễ hội Chử Đồng Tử – Tiên Dung mang giá trị văn hoá sâu sắc, là bức tranh về đời sống phong phú, sinh động của người Việt cổ vùng đồng bằng Bắc bộ trong việc khai phá đầm lầy, phù sa ven sông Hồng từ hàng ngàn năm trước. Đây không chỉ là huyền thoại về tình yêu mà còn là bài ca về lòng hiếu thảo, về đạo làm người, là minh chứng cho nền văn minh lâu đời của dân tộc Việt Nam.