Trải qua những biến cố thăng trầm lịch sử, có lúc tưởng chừng như không thể tồn tại được, nhưng với những đặc trưng về loại hình nghệ thuật độc đáo, sự phối hợp tuyệt vời giữa ca từ và giọng hát hoà cùng các nhạc khí, ca trù vẫn khẳng định vị trí của mình và luôn được người thưởng thức âm nhạc đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Để mọi người có thể hiểu hơn về hình thức âm nhạc của Ca trù, Vanhoatamlinh.com sẽ giới thiệu với các bạn bài viết về các nhạc cụ trong hát Ca trù.
Các nhạc cụ được sử dụng phổ biến trong Ca Trù
Hát ca trù được tạo bởi sự kết hợp của 4 loại nhạc cụ: đàn đáy, cỗ phách, cặp sênh và trống chầu. Đây là các nhạc cụ cơ bản để đệm hát, múa cho đào nương. Âm hưởng đặc sắc của Ca trù chỉ sinh ra khi có sự tham gia của đàn đát và cỗ phách – hai nhạc cụ có tính chuyên biệt này. Có thể nhận thấy không có sự tham gia của hai nhạc cụ này trong bất kỳ hình thứ nghệ thuật cổ truyền nào khác.
Đàn đáy
Thùng đàn đáy có hình chữ nhật hoặc hình thang, cần đàn dài, cả thân và cần đàn dài khoảng 160cm. Cần đàn có gắn 10 phím với vị trí gắn phím từ khoảng giữa cần đàn tới gần mặt đàn. Đàn có 3 dây. Để đánh, người chơi dùng que gảy, dài từ 5 đến 7cm.
Ở Thọ Xuân, Thanh Hóa truyền rằng: ngày xưa quanh đền Nhà trò có những cồn đất mang tên các nhạc cụ của Ca trù như Cồn Sênh, Cồn Đáy, Cồn Phách. Người ta tìm thấy nhiều bức chạm khắc đàn đáy có từ thế kỷ XV đến XVIII trong các mái đình, đền ở Bắc Bộ và Hà Tĩnh.
Đàn đáy có tính chuyên biệt mà người ta không thể thay thế hay thêm thắt bất cứ các nhạc cụ khác khi đệm các thể cách hát của ca trù.
Cỗ phách
Cỗ phách là nhạc cụ gồm có 1 bàn phách, 1 cặp dùi tròn, một đầu to, một đầu nhỏ, trong đó có 1 dùi được làm bằng 2 mảnh (dùi kép).
Có hai loại phách: phách dài (thanh gỗ) và phách ngắn (làm bằng gộc tre).
Ngày nay các ca nương hầu hết đều dùng phách ngắn, được làm bằng tre hoặc gỗ dài khoảng 20cm, rộng hơn 5cm, cao 2,5 – 3cm. Phách được coi như “giọng hát thứ hai” của đào nương. Tiếng phách khi thì ríu rít, dồn dập, khoan thai; có lúc lại đối lập, hoặc đồng điệu với giọng hát đào nương. Phách đã làm cho âm thanh của Ca trù trở nên kỳ ảo, hấp dẫn lạ kì và có sức lôi cuốn người nghe.
Cặp Sênh
Cặp Sênh làm bằng hai mảnh gỗ, dài khoảng 20 – 25 cm, bốn cạnh được vê tròn. Đào nương chủ yếu sử dụng cặp sênh khi hát thờ, hát múa Bỏ bộ, hát múa Chúc hỗ, phục vụ trong cung đình.
Hiện nay, ở nhiều câu lạc bộ Ca trù miền Trung vẫn còn theo truyền thống Giáo phường xưa, ca nương khi hát múa thờ tay rung cặp sênh rất điêu luyện.
Trống chầu có hai loại: trống lớn và trống nhỏ.
Trống chầu lớn là loại trống để ở đình làng. Khi đào nương hát thờ, quan viên cầm chầu bằng trống lớn cùng với chiêng và chuông bát. Âm thanh của những nhạc cụ gõ này tạo ra làm lối hát thờ trở nên uy nghiêm và huyền bí.
Trống chầu nhỏ là loại trống có hình dạng giống như chiếc trống đế trong Chèo nhưng lớn hơn một chút, âm thanh trống ấm và đục hơn. Dùi trống làm bằng gỗ găng hoặc gỗ mai, dài khoảng 25 – 30cm (thường được gọi là roi chầu). Khi cầm chầu người ta đánh mạnh roi chầu xuống mặt trống tạo ra âm sắc đặc biệt vừa cao sang, vừa mạnh mẽ, hùng hồn.
Đàn đáy, cặp sênh, trống chầu (nhỏ), cỗ phách là bộ nhạc cụ đặc trưng của Ca trù. Ngày nay các đào nương ít dùng cặp sênh hơn. Đây có thể là sự tinh giản hợp lý trong hát ca trù khi nghệ thuật hát đạt tới đỉnh cao.
Cho tới ngày nay, ca trù đã khẳng định được vị trí quan trọng trong nghệ thuật dân gian Việt Nam nói riêng và cả nhân loại nói chung. Hi vọng qua bài viết này, các bạn có thể nắm rõ phần nào các nhạc cụ trong hát ca trù.