I. Quốc hiệu là gì?
Quốc hiệu là tên chính thức của một nước (quốc gia), không chỉ có ý nghĩa biểu thị chủ quyền lãnh thổ, danh xưng chính thức được dùng trong ngoại giao, mà còn biểu thị thể chế và mục tiêu chính trị của một nước. Dù thể hiện dưới dạng tiếng nói hay chữ viết, đối với mỗi công dân, quốc hiệu luôn là lòng tự hào dân tộc.
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, ở mỗi giai đoạn phát triển, nước ta từng có những quốc hiệu như Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, Việt Nam… ngày 2.7.1976 Quốc hội khóa VI nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định đổi quốc hiệu là “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và quốc hiệu ấy được gọi cho tới ngày nay.
I. Quốc hiệu nước Việt Nam qua các thời kỳ
1. Quốc hiệu: Văn Lang
Từ đầu thời đại đồng thau, có khoảng 15 bộ Lạc Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên Nhà nước Văn Lang, xưng vua – mà sử cũ gọi là Hùng Vương, kinh đô đặt ở Phong Châu ( tỉnh Phú Thọ hiện nay)
Ý nghĩa Quốc hiệu Văn Lang: Hiện nay có nhiều cách giải thích khác nhau. lang là lan tỏa, văn là văn hóa. Văn Lang nghĩa là cội nguồn văn hóa mang sức mạnh lan tỏa.
2. Quốc hiệu: Âu Lạc
Âu Lạc là tên nước ta thời vua An Dương Vương.
Ý nghĩa quốc hiệu Âu Lạc: Chỉ sự đoàn kết Sau khi khiến. Thục Phán bằng ưu thế của mình đã xưng vương (An Dương Vương), liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc (tên ghép hai chữ của hai bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt). Quốc hiệu Âu Lạc tồn tại 50 năm từ 257 trước CN đến 207 trước CN
3. Quốc hiệu: Vạn Xuân
Vạn Xuân là tên nước ta thời nhà tiền Lý và nhà Ngô.
Ý nghĩa quốc hiệu Vạn Xuân: (Với ý nghĩa đất nước bền vững vạn mùa xuân), Vào mùa xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải phóng được lãnh thổ. Đến tháng 2 năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, lấy tên hiệu là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.
4. Quốc hiệu: Đại Cồ Việt
Đại Cồ Việt là tên nước ta thời nhà Đinh.
Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn 12 sứ quân cát cứ, thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là Ðại Cồ Việt (Đại nghĩa là lớn, Cồ nghĩa là lớn, do đó tên nước ta có nghĩa là nước Việt lớn). Ta cũng thấy lần đầu tiên yếu tố “Việt” được có trong quốc hiệu.
Tên nước Đại Cồ Việt tồn tại 86 năm (968-1054) trải qua suốt đời Ðinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý (1010-1053).
5. Quốc hiệu: Đại Việt
Đại Việt là tên nước ta thời nhà Lý, nhà Trần, sau đó sang thời nhà Hồ thì bị thay đổi.
Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý (Lý Thái Tông) liền cho đổi tên nước thành Đại Việt (nước Việt lớn, yếu tố “Việt” tiếp tục được khẳng định), và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần thì bị thay đổi.
6. Quốc hiệu: Đại Ngu
Đại Ngu là tên nước ta thời nhà Hồ.
Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly phế vua Trần Thiếu Đế lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành Đại Ngu (“Ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”). Quốc hiệu đó tồn tại cho đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).
7. Quốc hiệu: Đại Việt
Đại Việt được sử dụng làm quốc hiệu nước ta vào thời kỳ Hậu Lê và nhà Tây Sơn.
Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Ðại Việt (lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế). Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1802).
Tính cả nhà Lý, Trần, Hậu Lê và Tây Sơn, quốc hiệu Đại Việt của nước ta tồn tại 748 năm (1054-1804)
8. Quốc hiệu: Việt Nam
Việt Nam là tên nước ta thời nhà Nguyễn tính từ năm 1804-1884.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua và sau đó cho đổi tên nước là Việt Nam. Sách Đại Nam thực lục chép: “Giáp Tý, Gia Long năm thứ 3 (1804), tháng 2, ngày Đinh Sửu, đặt Quốc hiệu là Việt Nam, đem việc cáo Thái Miếu, xuống chiếu bố cáo trong ngoài”.
Tên gọi Việt Nam mang ý nghĩa chỉ quốc gia của người Việt ở phương Nam để phân biệt với quốc gia của những người ở phương Bắc.
9. Quốc hiệu: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là tên nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975).
Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toàn ách thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Khoảng 14h ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Quốc hiệu này khác với các quốc hiệu khác ở chỗ gắn với thể chế chính trị (dân chủ cộng hòa) thể hiện bản chất và mục đích của nhà nước là quyền dân chủ, tự do, công bằng cho tất cả mọi người
10. Quốc hiệu: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tên nước ta từ năm 1976 đến nay.
Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất. Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này, cũng như quốc hiệu trước đó, gắn với thể chế chính trị (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa) và mang ý nghĩa thể hiện mục tiêu tiêu vươn tới một xã hội tốt đẹp hơn.